4/3/12

"KHÔNG THÍCH CỦA NÀO TRỜI TRAO CỦA NẤY"

 Bùi Đạt Trung (BĐT/BĐ/Người nhái K25)

Đặt bút xuống viết những dòng chữ này đối với tôi là cả một "công trình vĩ đại". Từ khi đặt chân lên xứ người bận lo "cầy cấy" và với những phương tiện hiện đại, khi cần liên lạc chỉ việc nhắc phone hoặc email là xong, nên viết lách là cả một vấn đề xa xỉ phẩm.
Nhân dịp NQ12 với chủ đề “Những Dấu Chân Kỷ Niệm” và với tư cách “biệt đội trưởng, biệt đội người nhái”, vì mang chức “TRƯỞNG” nên phải bấm bụng trồi lên mặt nước đi họp và báo cáo sinh hoạt của mấy tên "thuộc hại" mà trong đó điển hình có một tên phù hợp với tựa đề của bài này.

Nguyễn Thanh Long, K25
Trong “trường mẹ” tôi với nó thuộc hai “trường phái” khác nhau, không quen nhau, không hợp gu và cũng chưa hề đi chơi, nói chuyện với nhau, chỉ nghe "danh tiếng" của nhau thôi, thế mà sau khi ra trường lại trở thành "dính lẹo" với nhau, từ đơn vị, chiến trường, cho đến lúc “tù tội”. Ngay khi còn trong trường, hắn đã có những biệt hiệu “để đời”. Theo tôi biết thì hắn có ba (3) biệt hiệu. Ngoài ra, còn biệt hiệu nào khác thì tôi chưa được biết. Tôi xin liệt kê cho các bạn xem huyền thoại của những biệt hiệu đó từ nhẹ tới nặng:

“LONG THỊT CẦY”

Ngay từ trong trường ra đến ngoài đơn vị, hắn với Hà Ngũ Lý là cặp bài trùng. Khi nào đóng quân gần nhau ở An-Lộc hay Chơn-Thành, vừa dịp lãnh lương là thế nào cũng có nồi "rựa mận" với vài lít đế. Điều này đã làm thay đổi cuộc đời của tôi. Vì vốn không thích ăn thịt chó, không phải vì sợ mà vì ấn tượng. Hồi còn nhỏ, học nội trú, ăn cơm với “giả cầy” mấy đứa bạn chọc tôi "nếu mày ăn thịt chó, mày sẽ biến thành chó", nên gia đình tôi ai ai cũng ăn thịt chó trừ tôi. Nhưng ngồi với “hai tên này” cùng với Vi Văn Đạt, Ngô Đức Khoa, Tạ Thúc Thái, khi đã sỉn sỉn rồi, tụi nó hỏi tôi bây giờ đã dám ăn thịt chó chưa, tôi bảo "Bây giờ thịt người tao cũng ăn".

“LONG BÔ”

"Bô" đây không phải là "bô giai" (beau giai) đâu các bác ạ. "Bô" này là ống “Bô xe hơi”. Miệng hắn lúc nào cũng toang hoác, nói oang oang như cái... Cho nên cái "bô" này đã gặp bao nhiêu là "truân chuyên" từ quân trường, đơn vị, cho đến khi tù tội.
Tại quân trường Dục Mỹ, trong khoá học "RỪNG NÚI SÌNH LẦY", sau khi học một bài nào về chiến thuật chẳng hạn như tấn công, đột kích, phục kích, đổ bộ là phải thực tập. Thực tập, thường xãy ra vào buổi sáng sớm ngày hôm sau, khoảng năm, sáu giờ sáng. Có một điều đau khổ nhất và ai cũng ngao ngán là sau khi bắn đạn mã tử trong lúc thực tập, khi về mọi người phải hối hả lau chùi và thông nòng súng để kịp tám giờ khám súng. Thường thì không ai được "vẹn toàn" cả. Một lần nọ, sau khi học xong bài “đột kích bình minh”, buổi thực tập được xãy ra lúc năm giờ sáng ngày hôm sau, trên một ngọn đồi và hắn là trưởng toán. Sau khi ban “lệnh hành quân”, toán bắt đầu xuất phát lúc bốn giờ. Ở dưới núi, huấn luyện viên chiến thuật đứng chờ và theo dõi. Sáu giờ, sáu giờ ba mươi rồi bảy giờ vẫn không thấy động tĩnh gì. Đáng lý ra, đã phải nghe tiếng súng nổ, hoả châu và tiếng la hét "xung phong, biệt động quân sát". Tứ bề vẫn im lặng. Huấn luyện viên đang lo không biết chuyện gì đang xảy ra. Một lúc sau, trưởng toán và đoàn tuỳ tùng xuất hiện. HLV hỏi "Ủa…, sao các anh chưa đột kích mà đã đi về rồi?". Hắn nói "Xong rồi, chúng tôi đột kích xong rồi". "Nhưng sao tôi không nghe tiếng súng gì hết vậy?" Hắn trả lời tỉnh bơ "Đâu cần, chiến thuật là phải “sáng tạo, nhanh chóng, bất ngờ và tàn bạo”. Chúng tôi không dùng súng mà xử dụng lưỡi lê". HLV chỉ còn biết dậm chân và kêu trời "Nhưng đây là quân trường chứ không phải chiến trường ..."

Khi ra đơn vị, trong số các bạn K25 về Liên Đoàn III Biệt Động Quân, trong đó có tôi, Tạ Thúc Thái và Hà Ngũ Lý về TĐ 31, Long "Bô" và Ngô Đức Khoa về TĐ36, Vi Văn Đạt và NT Lê Trung Nga K23 về TĐ 52. Trong toán có ba tên để râu: tôi, hắn và NT Nga. Mỗi TĐ mang một cầu vai màu khác nhau, TĐ 31 màu tím, TĐ 36 màu xanh (green), TĐ 52 màu đỏ. Thế nên, mỗi lần gọi nhau trên máy truyền tin là "Râu xanh gọi Râu tím". Về sau, TĐ râu đỏ có sáng kiến thêu hình con RỒNG lên cầu vai. TĐ 36, râu xanh thấy vậy muốn bắt chước nên họp các ban lại hỏi ý kiến, Thiếu Tá TĐT hỏi "Bây giờ các anh muốn thêu hình gì?". Hắn bèn giơ tay lên. Mọi người hí hửng lắng nghe. Hắn nói "Tôi có ý kiến là chúng ta nên thêu hình CON THỎ". Mọi người chưng hửng!!! TĐT hỏi "Tại sao lại là CON THỎ?". Hắn nói "Tiếp tế lương thực tuần nào cũng cho ăn toàn cà rốt. Vì thế, nên thêu con thỏ là đúng". Than ôi ! tuần sau, hắn được lệnh dẫn đại đội lên đóng tuyến đầu ...

Trong trại tù ở Hàm Tân, Z30C, hắn khệnh khạng đi lên trạm y tế khai bệnh và có mang theo một túi phân có dính máu, thều thào nói với tên bác sĩ (thực ra chỉ là tên cán sự y tế trong rừng ra): "Bác sĩ ơi, tôi bị kiết lỵ ra máu, mệt quá đi không nổi. Đây này BS xem thử coi!". Nói xong hắn liền dí túi phân vào mặt BS, BS sợ quá bịt mũi lại và vội xua tay "Thôi được rồi, về đi, cho nghỉ một ngày lao động". Thế là hắn ta cám ơn rối rít đi về chỗ nằm, từ từ lấy cái ly và muỗng ra, mở túi phân đổ hết vào trong ly và ngồi ăn sáng ngon lành. Thực ra đó chỉ là bột đậu xanh pha với một tị thuốc tím ...
Thậm chí có hôm hắn còn khai bệnh là bị ung thư cuống họng (UTCH) làm BS cứ ngớ ra chả hiểu UTCH là gì (có biết khỉ gì đâu), nhưng để chữa ngượng BS nầy vội cho hắn nghỉ một ngày lao động.

“LONG SỤN”

Cái huyền thoại này mới thật là ly kỳ và hấp dẫn. Hắn có một căn bệnh mà ít ai bị, đó là bệnh “đau xương sống”. Mỗi lần lên cơn, hắn nằm vật vã dưới đất, miệng sùi bọt mép, lưng oằn lên vì đau quá chịu không nổi làm mọi người lo quýnh lên phải tìm cách đưa hắn xuống bệnh xá. Năm thứ hai tại TVBQGVN, hắn ở Đại đội A, lầu 2 hoặc 3 gì đó. Một lần nọ, đến giờ đi học thái cực đạo bên Quang Trung, lúc mọi người sắp sửa leo lên xe GMC để đi thì hắn lên cơn “bổn cũ soạn lại”. Lần này, hắn thêm mắm thêm muối "Thôi tụi mày, tao van xin tụi mày, hãy cho tao phát đạn đi, tao chịu hết nổi rồi !". Các bạn lo quá, vội kêu bệnh xá mang ambulance lại chở hắn đi, sau đó mọi người leo lên xe đi học võ nhưng trong lòng vẫn lo lắng không biết tình trạng của hắn ra sao. Sau khi học xong, mọi người trở về trại và vội vàng leo lên cầu thang, về phòng xem hắn có đỡ không. Gần tới

phòng của hắn, một mùi thơm thoát ra từ đó làm ai cũng muốn "dzỏ dzãi". Mở cửa ra, thấy bệnh nhân đang đứng xào nấu một cách thoải mái, vô tư. Đây là một trong những trường hợp điển hình. Trong thời gian quân trường, tôi thường vẫn vơ suy nghĩ lao lung về căn bệnh “hiểm nghèo” của hắn là chưa bao giờ tôi nghe nói hắn lên cơn trong khi đang dạo chơi, ngoài khu phố Hoà Bình với đào, trong lúc đang mùi mẫn ở khu Phan Đình Phùng hay trong lúc đang nhậu thịt cầy. Rất may cho hắn, khi ra đơn vị, tôi không thấy căn bệnh này xuất hiện (xỉn quá rồi, có xuất hiện cũng không biết !!!).

Sau đó, trong trại cải tạo, căn bệnh này lại tái phát. Một buổi trưa, trời nắng chang chang, cả trại tập họp trước cổng để xuất trại đi lao động. Trong khi chờ “kiểm tra quân số”, hắn ngồi và lẩm bẩm "Tụi mày chuẩn bị nhé!". Thế là hắn bật ngữa lăn đùng ra đất, miệng sùi bọt mép. "SỤN" và "BÔ" phối hợp với nhau tạo nên một cảnh thê lương, hãi hùng. Tụi tôi vội vàng đứng lên "Báo cáo cán bộ, anh này bị lên cơn đau xương sống, đang bị hành quá!". Tên cán bộ thấy vậy, vội vàng nói "Thôi mấy anh khiêng anh ta vào trong phòng liền đi!". Không đợi nhắc chúng tôi ba bốn đứa vội vác hắn như vác “con heo nọc” vào trong nhà. Thằng cầm quạt, thằng nắn lưng, nắn vai trong khi hắn rên rỉ, trong lúc đó các đội đang xuất trại để đi lao động. Sau khi các đội đã đi hết, tiếng rên cũng tự động ngưng. Hắn mở mắt ra và thì thào "Chúng đi hết chưa?". Tôi liền rủa "Dậy đi thằng ông nội, khiêng mầy nặng thấy mẹ!". Hắn cười khì khì "Nhờ vậy mày mới được hưởng “ơn mưa móc” và “thơm lây” với căn bệnh của tao."
Đó là hình ảnh của thằng bạn của tôi mà hai đứa đã trở thành bạn nối khố sau khi ra trường vì những sự trùng hợp và dính lẹo của nhau: Đào của hắn và đào của tôi cùng làm chung một sở. Hai đứa về cùng một Liên Đoàn BĐQ và rồi "đứt phim" cùng ở chung một trại tù. Hình ảnh mà tôi nhớ mãi, là lúc gặp lại hắn tại trại tù Hàm Tân. vì hắn nhập trại sau tôi vào một ngày thứ bảy. Hôm sau, chủ nhật, tôi đang nấu nướng; khi đứng lên và quay lại, tôi thấy một “hiệp sĩ lưng gù” đang lững thững "đi tìm trẻ lạc". “Bốn mắt nhìn nhau, trào máu họng!!!”, không nói không rằng ôm chầm lấy nhau. Qua giây phút "nghẹn ngào", tôi vội vàng vểnh tai để nghe ống "Bô" bắt đầu nổ....
Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong những “dấu chân kỷ niệm” của đời tôi.
Bùi Đạt Trung (BĐT/BĐ/Người nhái K25)



2/10/11

Chút Suy Tư

                                       



                           Tống phước Hiến


I.- Trong tù:


Bọn si điên, say men vai chủ mới
Ngùn ngụt kiêu căng, thăm thẳm hận thù.
Trước mắt ngợm – người là kẻ câm mù,
Nên mặc sức, tung đường gươm ác quỷ.
Bao cơ cực, chôn mình vào mộng mị,
Bao ước mơ, cay đắng dấu trong hồn,
Nơi lao nhục, người đành lấp trí nhân,
Dấu giòng lệ, nuôi sâu niềm thống hận.
Mũi súng đen, lời roi phun nọc bẩn,
Xúng xính cười, bái phục những hoang mê
Tâm thác loạn, hừng hực lửa hả hê,
Bầy ác thú cuồng say cơn thịnh nộ.
Người chưa chết, đã trở thành cổ mộ,
Nên quqy về thinh lặng với hư vô,
Nghe lệ đá nưng đôi giọt thẩn thờ,
Cùng cây cỏ thấm chín tầng địa ngục



II.- Về nhà :


Ta xót sa, xoa gót em nức nẻ,
Bàn tay nhung nay sạn sỏi hờn oan,
Lệ chảy ngược, bầm tím máu hân hoan
Lòng chân thật đành đào sâu chôn dấu
Con ta đó đuổi nhanh thời thơ ấu,
Mắt lạc loài trắng đục những niềm mơ,
Đời trôi qua dăm mộng ước hững hờ,
Da chai đá, roi đời chờ chực đón.
Bảy năm trời đã trở thành phân bón,
Lữa quê hương trăn trở suốt thâu canh
Nuôi ý chí trổ hoa lá đâm cành,
Hoa và đá bắt tay cùng bụi chuối.




III.- Tỵ Nạn


Ta ra đi, xa miếu đền xưa cũ,
Xa con sông, ngọn núi lũy tre làng
Và cũng xa bao man rợ hung tàn,
Nhưng gần lắm những oan hồn đã khuất.
Hãy gom lại những hồn ma u uất,
Cùng chúng tôi xô ngã những điêu linh,
Hãy trổi dậy những thao thức trở mình
Mà một thưở thấm tim gan phế phủ.

Đời không trôi trên lối mòn ủ rũ,
Lời đao ta búa lớn lẫn u hoài,
Dòng lịch sử theo vận nước trải dài,
Hãy bước tiếp như Tiền nhân đã bước
Dấu chỉ đường vẫn mãi là phía trước
Hãy khắc ghi những hung hãn bạo tàn
Hỡi bờ cây bụi cỏ vạn lời than
Hãy gom lại thành triều dâng sóng dậy.



       Tống Phước Hiến

8/4/11

Người Lính








từng giây phút, chảy xuôi một chiều cố định bất di bất dịch theo quy luật của tạo hóa, thời gian cũng vụt thoáng qua rất nhanh, đâu có ai biết được dưới mặt của dòng thời gian phẳng lặng, hiền hòa đó có biết bao nhiêu biến cố lịch sử, bao nhiêu thảm họa vì chiến tranh, bao nhiêu thăng trầm của một đời người.


Dòng thời gian hững hờ trôi chảy mãi, khi ta ngoảnh lại nhìn thì dù là một khoảnh khắc vừa thoáng qua hay xa mờ cuối dòng tiềm thức, ta khẽ gọi đó là dĩ vãng. Dĩ vãng của một thời để nhớ “từ khi anh thôi học là từ khi anh khoác áo treillis …” ; Dĩ vãng của một thời để thương trên bước đường quân hành nhìn quê hương “đẹp tựa trong tranh, gót bùn lầy cho lúa thêm xanh …” ; Dĩ vãng của một thời để đau từ “một ngày bảy lăm, con bỏ hết giang san …” !


Nhân dịp Lễ Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ, tôi viết những dòng chữ này để tri ân 58,000 chiến binh Hoa Kỳ, các chiến sĩ đồng minh Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Đại Hàn .v..vvv đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam ; 350,000 chiến sĩ QLVNCH và những người đã nằm xuống cho hai chữ tự do của Miền Nam Việt Nam. Tôi cũng trân trọng viết về một “Người Lính” trẻ nhất nhưng lại là một “Người Lính” đặc biệt nhất của QLVNCH.


“Người Lính” đó không có số quân, không có cấp bậc, không có chức vụ, anh đã khoác vào mình bộ quân phục của QLVNCH với đầy đủ quân trang, quân dụng từ lúc mới vừa chào đời vào năm 1966 ; Anh cũng không xuất thân từ bất cứ một quân trường nào, anh được đào tạo và hiện diện với quê hương vào cuối năm 1966, bởi đôi bàn tay khéo léo của Đại úy Nguyễn Thanh Thu (*). Đến năm 1968, “Người Lính” được tân trang lại và vinh dự được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kiêm tổng tư lệnh tối cao của QLVNCH chủ tọa buổi lễ khánh thành cùng với sự hiện diện của hầu hết các giới chức cao cấp trong ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, các vị tướng lãnh cùng một số đông quân nhân các cấp và đồng bào từ thủ đô và các tỉnh lân cận về tham dự. Buổi lễ khánh thành long trọng chào đón “Người Lính” được nghiêm trang tổ chức vào ngày 01.11.1968 với đầy đủ lễ nghi quân cách. “Người Lính” đặc biệt đó mang tên “Thương Tiếc” thuộc đơn vị “Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa”.


“Người Lính” ngồi lặng yên với một tư thế bình thản, bất động dưới nắng mưa chứng kiến những thăng trầm lịch sử ; “Người Lính” là chứng nhân của những mất mát, đau thương, tang tóc trên mảnh đất miền Nam bởi lũ cộng sản khát máu gây nên ; “Người Lính” với khuôn mặt ưu tư, ánh mắt đượm một nỗi u buồn xa vắng nhìn quê hương mịt mờ trong khói lửa, nhìn từng cụm khói bốc lên từ một chiến trường nào đó trên quê hương, nơi mà các chiến hữu, các người bạn đồng đội đang xông pha trong lằn tên, mũi đạn đánh đuổi quân thù, bảo vệ từng tấc đất của quê hương.


Hằng đêm “Người Lính” ngồi lặng yên nhìn hỏa châu soi sáng một góc trời, nơi đang xảy ra trận giao tranh ác liệt giữa những người con yêu của tổ quốc đang đánh đuổi những kẻ mang đôi dép râu cuồng vọng từ phương Bắc vào xâm lăng, gây cảnh tóc tang trên mảnh đất mẹ thân yêu ; Những đêm khuya, “Người Lính” nghe tiếng đại bác của quân thù vọng về thành phố, phá tan sự tĩnh lặng của không gian, tạo nên nỗi lo âu hiện lên khuôn mặt còn ngáy ngủ của người dân hậu phương.


“Người Lính” mang linh hồn của trên 18,000 anh hùng QLVNCH tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa và trên 350,000 anh linh QLVNCH trên khắp bốn vùng chiến thuật đã xong nợ xương máu không trở về ! “Người Lính” đã chứng kiến bao nhiêu cặp mắt nhạt nhòa của những “lá vàng khóc lá xanh rơi” ; Bao nhiêu vành tang trắng của những góa phụ ngây thơ đang gục đầu bên hòm gỗ cài hoa ; Bao nhiêu vành tang trắng phủ lên đầu những trẻ thơ vô tội còn đang bập bẹ chưa biết gọi tiếng cha, đang ngơ ngác nhìn mọi người đang gục đầu tuôn rơi những dòng lệ tiễn đưa những đứa con yêu của Tổ Quốc trong một chuyến quân hành cuối cùng không bao giờ trở lại đơn vị !


Trong những đêm khuya âm u vắng lặng, thỉnh thoảng vài cơn gió rít trong không gian tạo cho khung cảnh nghĩa trang thêm huyền bí và rợn người, những hạt sương đêm vô tình đọng vương nơi khóe mắt “Người Lính”, long lanh dưới ánh đèn đêm mờ ảo, đã tạo nên bao huyền thoại về “Người Lính”. Những chuyến xe đò về trể trong đêm, khi chạy ngang qua nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, thỉnh thoảng thấy một người lính đứng đón xe bên vệ đường, xe dừng lại … “Người Lính” thanh thản bước lên xe một cách bình thường như bao hành khách khác, xe chạy được một quảng … người lơ xe quay lại định hỏi chuyện “Người Lính”, nhưng không thấy bóng dáng “Người Lính” đâu cả, người lơ xe trố mắt kinh ngạc dáo dác tìm chung quanh rồi bất chợt hỏi một câu làm vài người và sau đó là cả xe đều tỉnh ngủ và rùng mình … “Ủa … Anh lính đâu mất rồi ….?”. Hành khách trên những chuyến xe xuôi ngược trên tuyến đường này và người dân địa phương rùng mình không phải vì sợ bóng ma hay oan hồn của “Người Lính” mà là sự linh thiêng của những người đã can đảm đem cái chết của mình để đánh đổi sự sống cho quê hương và 17 triệu người dân miền Nam.


Ngày 30/04/1975, QLVNCH đau đớn nhận một quân lệnh “bức tử” phải bước ra khỏi đoạn đường chiến binh còn đang dang dở, một đoạn đường dài 20 năm đã vùi lấp trên 350,000 anh hùng “Vị Quốc Vong Thân”, 150,000 người đã bỏ lại một phần thân thể trên đoạn đường xương máu này để bảo vệ hai chữ “Tự Do” cho quê hương, dân tộc.


Sau ngày 30/04/1975, “Người Lính” không bị lũ cộng sản tập trung vào các trại tù khổ sai khắc nghiệt nhưng lũ người cộng sản không tim óc đó đã hèn hạ trả thù bằng cách giật sập và phá hủy thân anh, lũ cộng sản đê tiện không tánh người đã trả thù ngay cả trên một pho tượng đồng vô tri nhưng có linh hồn. “Người Lính” bây giờ không còn ngồi nơi chốn cũ nữa, “Người Lính” đã quyện vào lá cờ hồn thiêng sông núi, “Người Lính” hiện diện trong trái tim của tất cả Quân Dân Cán Chính VNCH đang lưu vong biệt xứ hay đang lê lết trên quê hương đổ nát.


Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từng nói “Quốc Gia thắng, tất cả còn ; Cộng sản thắng, mất tất cả”. Một câu nói thật đúng, nhưng Người Lính VNCH không mất tất cả, Người Lính VNCH vẫn còn một bảo vật, đó là lá Quốc Kỳ đang tung bay phất phới ở bất cứ một quốc gia tự do nào trên thế giới có bóng dáng Người Lính VNCH. Lá cờ vàng ba sọc đỏ là hồn thiêng sông núi, là Tổ Quốc của Người Lính VNCH, là niềm tin mãnh liệt cho một ngày quang phục lại Giang san, trang trọng dựng xây lại pho tượng “Người Lính” “THƯƠNG TIẾC” để Vinh Danh_Tưởng Niệm và Tri Ân những anh hùng QLVNCH “Vị Quốc Vong Thân”./.






Người Lính VNCH “Hoàng Nhật Thơ”






6/3/11

BÔNG HỒNG TRÊN VẾT DẦU LOANG


Ngày buồn rồi sẽ qua đi, sinh hoạt Quán Lá cũng sẽ trở lại bình thường, nhưng dư âm vẫn còn đọng lại trong chúng ta với quá nhiều cảm xúc, tự hào và hãnh diện vì mình là “A.20”
Khi biến cố xảy đến cho gia đình Hải Bầu, một số A.20 xa gần thường liên lạc với “Bầu” rất lo lắng, quan tâm và chia xẻ…., lên net thông báo cho Quán lá, những chỉ có lẻ tẻ hồi đáp, hầu như gặp “bức tường im lặng” vì đa số không có xử dụng computer và không có theo dõi sinh hoạt Quán Lá qua email.
Lúc đầu Quán có vẻ thất vọng và muốn bỏ cuộc, sợ rằng sự tồn tại sẽ không còn bao lâu nữa, nhưng bây giờ mới thấy ý nghĩ đó hoàn toàn sai lầm.
Sau khi chị Hải nằm xuống, thời gian cấp bách không còn nhiều, mọi người đã săn tay áo, vận dụng tất cả những gì có trong tay, computer, điện thoại. Moi trí nhớ, gọi đến các A.20 trên toàn thế giới, thông báo hoàn cảnh của bạn mình và kêu gọi mọi người móc nối, liên lạc tới những hang cùng ngõ hẻm…
Không ngờ hành động này đã đi vào huyền sử của Quán Lá A.20, chỉ trong thời gian ngắn 1, 2 ngày…, công việc “tìm trẻ lạc” đã lan đi một cách nhanh chóng và vũ bão… như “vết dầu loang”, hơn hẳn biến cố “vịnh Mexico”.
Tác dụng rất hiệu quả, tình thần, nhiệt huyết, hào khí của A.20 vẫn chưa chết mà chỉ hơi đông lạnh và ngủ gục vì hoàn cảnh, cuộc sống…. Nhưng khi một tim đèn đưa vết dầu loang đến đâu là đông lạnh tan đến đấy…

- - Một Úc Châu, vừa “loang” ra là các “down under” đã dính lại ngay tức khắc thành “up over” với Khải, Thủy, Đạo, Trình, Pha, Phố, Rạng, Ninh.

- - Một Pháp Quốc với Robinson Nguyễn Đại Thuật lẻ loi trên ốc đảo, chỉ rình có giọt dầu nào lan tới là chộp ngay.

- - Một “Suối Máu” hùng hậu với khí thế “Đêm Noel” năm nào chưa hề tàn lụi…. Quả thật “người lính già không bao giờ chết mà chỉ tàn phai với thời gian” (MacArthur) .

- - Một Seattle “xứ lạnh tình nồng” forever với Thận, Nghị, Chuyên, Trai, Giàu.

- - Một Oregon với Hạnh, Đủ, Liên, Tường tuy bận nhưng không thờ ơ.

- - Một Utah không ù lì với Nghĩa, Ân….

- Một Colorado với Tiến “Dế” cũng lắc chắt chui từ lỗ ra gáy ầm lên, tiếng siêu âm vang vòng vòng xung quanh cũng làm “nhột nhột” đến cả chục lỗ tai, lại còn vang cả tới Florida, móc được 6 “Dzảnh”, chưa kể ở đó còn có đại ca Phan Thành Lương ân oán phân minh…

- - Một Canada với Hồ Hoàng Khánh tuy bận hành hiệp nhưng vẫn sẵn sàng phóng phi tiêu tới bất cứ giọt dầu nào đang lao tới và hạm đội của Đô đốc Victor luôn sẵn sàng vớt dầu…

- - Một Texas với những tay cowboy bách phát bách trúng mà Phạm Đức Nhì chỉ cần cất tiếng “hét” lên là
đã “bừng sáng” hết vùng sa mạc, làm cho Cái Trọng Ty tuy trầm lặng nhưng lúc nào cũng nồng nàn phải “lâng lâng” và Lê Hoàng Ân tuy trịnh trọng nhưng cũng…. ngó trước ngó sau rồi “tủm tỉm” gật gù. Một Hải Angola tuy bận lo phần an ninh nhưng cũng lo cả cho thằng bạn mình ở xa. Một Nguyễn Chí Thiệp có tên Hải Bầu trong “Trại Kiên Giam” chả lẽ lại quên nó, nào Khuất Duy Trác, nào Long Sữa, Quang Lê, Lê Trung Phương.. v..v…

- - Một Oakland với Ngô Quốc Việt “lụy vì bạn”, mê bạn hơn mê gái “but no gay”. Một Đỗ Văn Thái sẵn sàng “dzúi” anytime, cộng với Nha Kỹ Thuật Nguyễn Quốc Anh Tuấn bận nhảy toán triền miên trên rừng Concorde, lại bị sốt rét nó hành cũng ráng chui ra để chia xẻ vài viên “ký ninh”

- Một Nam Cali kề cận và hùng hậu với “thần bút đại hiệp” Vũ Văn Ánh, bút lông chỉ cần “ngoáy” một cái là “đạn dược” bay tới ào ào, cùng với tàng cây cổ thụ phủ bóng mát lên Quán Lá mà cái … “tên” định mệnh của mình đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho các anh em với câu nói thường trực đã đi vào huyền thoại: “Có chuyện gì cứ gọi cho anh Hậu…”. Thật là một điểm son cho cánh Nam Hà.
Một “Cu Bi” lăng xăng thật dễ thương cùng với Đỗ Văn Trình đi đòi những tên nào đã lỡ dại nghe truyện “phong thần” của hắn phải đóng lệ phí kèm theo gương mặt “ngầu pín” của Đại “Gấu” đi bên cạnh thì bố ai mà né cho được, ấy là chưa kể quán quân “húc cơ” Tống Phước Hiến thì quần thần chỉ có nước “nhừ tử”, đó là chưa nói tới tư lệnh BĐQ Nguyễn Văn Học vừa mới xuất hiện.

- Nam Cali mà không nói tới Bắc Cali thì còn ra cái thể thống gì nữa, một Phạm Kim Minh với tấm lòng nhân hậu, nhiệt tình khiến chúng ta phải ngưỡng mộ, một “pho” tự điển Tôn Lò thì không sẩy một ai cả. “Ngọng” như Tám Chùa mà cũng ép phê ra phết, cộng với thuốc bồi của Ngọc đen thảy qua từ Virginia dưới sự chỉ đạo của Hà Mạnh Phan thì kho đạn Long Bình nổ đâu có thấm thía gì, khiến cho Duyên Voi phải thốt lên: “tụi mày đâu thì anh đó”, đồng thời làm cho Phùng Văn Triển lé mắt, mặc dù gánh nặng gia đình nhưng điểm danh chưa bao giờ vắng, trong khi anh Hoàng tuy “si ca que” nhưng dầu loang tới là “cổ” và “tay” vẫn “nhuần nhuyễn” như thường.
Một Tư “Rè” tuy rất bận bịu với sinh hoạt cộng đồng nhưng tinh thần Suối Máu và A.20 vẫn luôn ngời sáng.
Còn đang hưởng trợ cấp mà cũng gom “bi” để bắn như Long “sụn” (New Hamshire) và Khôi “Điếc”… thì thật là cảm động. Với Đoàn Ngọc Thụy, tuy cuộc sống thật là bình dị và đơn giản nhưng anh rất hãnh diện và hạnh phúc với một nửa còn lại thật tuyệt vời và nhân hậu của mình, sau khi đọc những lời tâm tình của Vũ Văn Ánh, một nửa đã phán một câu “xanh rờn” với phu quân của mình: “Go ahead, you một trăm. Me một trăm”.
Nhưng đó không phải là “duy nhất”, mà chúng ta phải “trân trọng” với những nửa của mỗi người, không có những “nửa” đó thì chưa chắc Quán Lá đã tồn tại lâu.

*****Quán Lá mà không có người “giữ cửa” Út Khiết thì đã “banh sa rông Nông Pênh” rồi, có Út thì ngọn hải đăng mới soi chiếu được tới những nơi mà “vết dầu loang” lan tới.

**********Cám ơn chị Phú, cám ơn Hải Bầu, nhờ dịp này chúng ta mới gần nhau và hiểu nhau hơn, cho nên hình ảnh chị Phú được mệnh danh là:

"BÔNG HỒNG TRÊN VẾT DẦU LOANG"

Từ tiêu đề này, chúng ta thấy vấn đề “lập quỹ” không còn cần thiết nữa, vì nó rất “nhạy cảm” và “phức tạp” dễ mang tiếng, các anh đã từng sinh hoạt cộng đồng nên hiểu điều đó hơn ai hết…., ta cứ “ngẫu hứng” mà lại đạt kết quả “trên cả tuyệt vời”… sau này mỗi lần nghe bất cứ nơi nào xướng lên “vết dầu loang” là chúng ta hiểu đó là “mật hiệu” của chiến dịch “Hoa tình thương A.20” xuất hiện và chúng ta đã biết mình sẽ phải làm gì.

*******Xin hương hồn chị Phú luôn phù trợ cho tình thần Quán Lá A.20 luôn bền vững và “vết dầu loang” này sẽ nguồn nhiên liệu phong phú giúp cho “con cua sắt” Hải Bầu tiếp tục vững mạnh và lăn bánh với quý tử yêu quý của mình.


Chào thân ái,

BÙI ĐẠT TRUNG

Tự
TRUNG "ĐIÊN"



Tâm tình với các đồng đội A-20 Xuân Phước


Vũ Ánh


Tôi không phải là người đầu tiên được Hải bầu báo tin cho biết người bạn đời của anh đã ra người thiên cổ ở tuổi 60. Cái tật ít nghe lời nhắn trên cell khiến tôi chùng xuống vì ân hận khi vào sáng tinh mơ, Phạm Đức Nhì ở Galveston gọi cho tôi báo hung tin. Tôi không gọi cho Hải bầu, vì tôi biết trong giờ phút ấy, những lời an ủi chẳng có tác dụng gì giữa cái mất mát to lớn của người bạn tù thân thiết của mình. Hải làm ở gần tòa soạn tôi, thỉnh thoảng anh em gặp nhau để bàn về chuyện tổ chức gặp mặt vào Tháng Bẩy này. Tôi biết hoàn cảnh của Hải bầu rất khó khăn, tôi lại không giầu có gì, nhưng không hiểu sao vào giây phút khẩn cấp ấy tôi nghĩ những anh em nào đã chia nhau từng miếng khoai hà, từng chén canh đại dương, canh giây thép gai, mắm đã có giòi trong những bữa cơm tù, từng nhìn thấy cảnh một bi thuốc lào mà bốn năm đứa chuyền tay nhau kéo, từng vá cho nhau những miếng vá trên các bộ quân phục đã bắt đầu mục rách… có thể giúp tìm ra một giải pháp.


Đọc thư của Út Khiết viết từ Việt Nam mà nước mắt tôi cứ tuôn ra. Anh em ngày xưa đói khổ như thế, một viên thuốc kiết lỵ là một thỏi vàng mà chúng ta còn dám cho những đồng đội không may của mình trong tù, chúng ta dù thân thể như những cái xác ve biết đi thời người Do Thái bị Đức Quốc Xã lưu đày trước khi vào lò thiêu xác, mà mắt chúng ta còn rực lửa, tay còn nắm chặt những cán quốc và nói thẳng với mấy tên súng dài súng ngắn khi quản giáo nhất định đòi “Quách” Tĩnh (Đại úy Tĩnh) phải quì xuống để chúng đánh: “Cán bộ đánh bạn tôi, chúng tôi sẽ bổ những cái cuốc này lên đầu cán bộ cho dù chúng tôi phải hy sinh”. Chính những đôi mắt rực lửa đó đã làm cho tên quản giáo chùn bước thì lẽ nào ngày nay chúng ta lại lặng lẽ đứng nhìn bạn mình, đồng đội mình chìm đắm trong những khó khăn để đến nỗi không thể cử hành tang lễ cho người bạn đời của anh một cách đàng hoàng? Chị là người đã dám “lãnh” Hải bầu trong giai đoạn Bầu khốn cùng nhất, chịu đựng cái tính “xe tăng” của Hải một thời gian dài sau lần bị bắt thứ hai ở Saigon năm 1987. Vâng “cậu” chơi bạo nhưng vợ lại phải khăn gói đi thăm tù cải tạo. Sau khi định cư muộn màng ở Hoa Kỳ, chị lại chịu đựng, chia sẻ cuộc sống vất vả khó khăn của chồng trong khi mầm bệnh đang tàn phá dần cơ thể của mình.


Tôi thảo thư gởi các đồng đội từng chia sẻ với tôi trong bao gian lao ở trại trừng giới A-20 Xuân Phước về chuyện giúp Hải “bầu”. Tội nghiệp Út Khiết, cậu em nhỏ tuổi nhất trong số chúng tôi còn sinh sống ở Việt Nam cứ bấn loạn lên. Khiết gởi thư kêu gào đi khắp nơi từ Úc Châu, Pháp cho đến các ông anh, bạn bè với Khiết từng qua cổng trại A-20 đang ở Hoa Kỳ. Nó gõ kẻng, báo động, bấm chuông. Nhờ Út Khiết, dù chúng tôi chưa hề bao giờ tập họp thành một hội đoàn tương trợ, Phạm Kim Minh ở San Jose cũng đã trở thành chính tinh thần tương trợ của tất cả những anh em nào ở A-20 còn giữ lại tấm lòng với nhau, còn nghĩ tới những năm tháng đen tối ở cái thung lũng của thần chết cách biệt hẳn với xã hội chung quanh và bên ngoài. Phạm Kim Minh trở thành “văn phòng trung ương” cho chiến dịch tương trợ Hải “bầu”. Hải bị kiệt quệ hoàn toàn về tài chánh sau thời gian dài vợ bị bệnh nên cần huy động tiền bằng phương tiện nhanh nhất để chi phí cho tang lễ, Minh đã là “ngân hàng ứng trước” cho những bạn chưa kịp gởi. Từ Úc châu, Khải đứng ra làm đầu tầu và chỉ trong chưa đầy 2 ngày, tương trợ đã đến tay Hải bầu.


Dù vậy, mãi cho đến khi Tám “chùa” đại diện anh em Bắc California mang cái bị từ San Jose xuống gặp nhau ở Chùa Bát Nhã, anh em mới hết căng thẳng. Chùa Bát Nhã đã mở rộng cánh cửa đối với gia đình Hải bầu, vị trụ trì, các ni, sư , anh em Gia Đình Phật Tử trong chùa đều hết sức tận tình. Rồi những đồng nghiệp của Hải, chủ nhân và nhân viên cơ sở nơi Hải bầu làm việc cũng hết sức chia sẻ với anh những khó khăn. A-20 Nguyễn Đại Thuật mãi bên Tây cũng đã bảo cậu con nuôi của anh, cháu Hải đến giúp đỡ Hải “bầu”. Cháu đã tận tình túc trực ngày đêm để Hải bầu nhờ công việc.

Còn về phần các bạn A-20 Xuân Phước, thực tình tôi không còn tìm nổi một chữ nào nữa để mô tả cảm hứng, niềm tin của tôi vào tình đồng đội trong chốn lao tù Cộng Sản mà chúng ta đã từng biểu lộ cách đây gần 40 năm rồi mà vẫn còn giữ được. Nó vẫn như thế, keo sơn, nhân ái, dựa lưng vào nhau mà chiến đấu trong một cuộc chiến khác. Tôi cho rằng anh em chúng ta chắc không ai quên được Bùi Đạt Trung cựu sĩ quan Biệt Động Quân, cái anh chàng vào những lúc đói khổ nhất trong A-20 vẫn điển trai, nghênh ngang, đối đáp “chỉa” mấy chèo vàng tỉnh bơ, nhiều lúc tưởng chúng nó bắn “chàng” rồi. Trung “điên” hả? Đúng. Nhiều lúc tưởng nó điên thật nhưng anh em hãnh diện vì cái điên của hắn, cái điên bảo toàn được nhân cách. Tôi cho rằng, trong hoàn ảnh đặc biệt của A-20 giữ được nhân cách là chiến thắng, phải không các bạn? Nhưng các bạn không thể ngờ được, nếu bạn nào từng đọc những e-mail “cần phải đề phòng người khác coi mình” và những e-mail tếu của Trung sẽ thấy lần này Trung “điên” không “điên”. Trung viết một bài rất hay, cảm động và đầy ý nghĩa đã được post lên trại trừng giới. Các bạn cần phải coi. Trung “điên” đã cho mọi người chúng ta thấy một cái mẫu mực về tinh thần tương trợ mà các cựu tù cải tạo A-20 nêu cao trong suốt thời gian lưu đầy. Tôi nghĩ bài viết của Trung “điên” là một thông điệp đầy đủ mà anh em chúng ta muốn gởi cho nhau và mỗi người cũng cần đọc.


Lễ hỏa táng vợ Hải bầu như thế là được coi như tốt đẹp. Các anh em ở Nam Cali như Tám chùa, Hai néo, Giang Văn Hai, Đại “gấu”, Trình “mễ”, Vũ Lộ, Hải “cà”, Tống Phước Hiến+ vợ, Nguyễn Văn Học+vợ, Vũ Ánh+vợ, anh cả Nhan Hữu Hậu…đã mạn phép đại diện cho các anh em cựu tù cải tạo A-20 ở Úc, Pháp, Việt Nam, “4 Vùng Chiến Thuật” (các tiểu bang) ở Hoa Kỳ viếng thăm và tiễn đưa vợ Hải “bầu”. Trước đó một ngày, vào buổi chiều chị Bình có chở Đoàn Bá Phụ đến chùa Bát Nhã để viếng linh cữu vợ Hải bầu, nhưng Phụ đi đứng khó khăn lắm rồi nên chỉ có chị Bình vào. Hải bầu ra xe chào Đoàn Bá Phụ và nói chuyện ở ngoài xe. Theo như lời Hải “bầu”, sức khỏe Đoàn Bá Phụ xuống thấp lắm.


Thật ra, đám tang nào cũng là một điều buồn cho tang chủ, nhưng anh em A-20 đã được một “benefit” từ chị Phú. Chị nằm xuống rồi mà vẫn còn giúp cho anh em chúng tôi gặp lại nhau trong tang lễ, gặp lại nhau trong chiến dịch tương trợ, nhắc nhở nhau duy trì tinh thần đồng đội bất diệt của 40 năm trước. Riêng Nam Cali được thêm một benefit khác, đó là sau tang lễ, vợ chồng Vũ Lộ mời tất cả mọi người đến nhà anh vào buổi tối thưởng thức món giả cầy chính hiệu kiểu Bắc Kỳ do vợ anh chế biến. Ngoài ra còn gà đi bộ luộc, nghêu xào xúc bánh tráng và cháo gà.

Trong bữa ăn, Đại “gấu đã “than phiền” Trung “điên” đã viết Đại “gấu” có khuôn mặt “ngầu” nhưng là “ngầu pín”. Anh cười và nói: “Nó viết ngầu là được rồi, lại còn thêm chữ pín vô làm gì”. Mọi người cười rộ lên. (VA)

























3/2/11

NHỮNG TIẾNG HÁT BỪNG SÁNG A 20

Kỷ niệm 29 năm ngày khai hội Tù Ca tại trại A20, Quán Lá xin giới thiệu cùng tất cả cựu tù Xuân Phước và thế giới đấu tranh, một trường ca bất khuất không bao giờ lãng quên trong lòng những con đại bàng. A20 Phạm Đức Nhì sẽ dẫn chúng ta sống lại những ngày tháng kêu hùng của Tết năm 1982, dưới gông cùm khắc nghiệt của trại Trừng Giới, dưới bạo tàn của các cai tù mang giòng máu liên khu 5. Hãy nhìn một chặng đường oan nghiệt mà những cựu tù Xuân Phước đã qua. Trong ngời ngời đao kiếm đó tinh thần của các con đại bàng A20 vẫn bất tử.

Lời nói đầu

Cách đây 29 năm, vào ngày mồng 1 tết năm Nhâm Tuất (1982) ở phân trại E, A 20 có 3 thằng điên - giữa lúc không khí căng thẳng, kỷ luật khắt khe, ăng ten lộng hành, đã tụ họp, bàn tính tổ chức một buổi văn nghệ “ phản cách mạng “ biểu dương tinh thần bất khuất, ý chí quật khởi của những người tù chính trị, những chiến sĩ đấu tranh đòi tự do, nhân quyền. Tôi và một số anh em khác bỗng biến thành những kẻ dại khờ bị 3 thằng điên gây máu lửa đẩy vào cuộc chơi. Sau này ngồi nghĩ lại những hành động điên khùng, dại khờ lúc đó, lòng bỗng thấy vui vui. Té ra hình ảnh những ngày tết năm ấy đã chiếm một khoảng trong tâm hồn mình, đã thành một kỷ niệm khó quên. Xin được phép chia sẻ kỷ niệm ấy với các bạn tù A 20


Phạm Đức Nhì


GẦY SÒNG THẤT BẠI

Khoảng giữa năm 1979 tôi bị giải từ Bù Gia Mập - Phước Long - về Z30D Hàm Tân. Ở đây tôi làm bạn với Vũ Mạnh Dũng - một sinh viên bị bắt vì tham gia những hoạt động của sinh viên đại học chống chính quyền Cộng Sản. Dũng chơi guitar khá nhuyễn, biết nhạc lý và hát cũng rất hay. Dũng cho tôi biết ở trại có ca sĩ Duy Trác (một trong hai nam ca sĩ hát hay nhất miền nam trước 75) và anh Trác đã sáng tác hai bản nhạc được anh em ưa thích là Lời Nguyện Trong Tù và Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về. Tôi nhờ Dũng đưa đến gặp anh Trác. Anh Trác vui vẻ trò chuyện với tôi và đồng ý về một buổi văn nghệ bỏ túi để các bạn tù từ các trại trao đổi tù ca với nhau. Dũng cũng cho biết ở đội trốn trại bên một khu khác có Mưa Trên Ngục Tù của Nguyễn Hưng Đạo và Nếu Quả Ta Là Người – không biết của ai – mà anh Ruyệt hát rất hay.
Trước khi chia tay anh Trác nói với tôi: “Khi nào thuận tiện bạn cứ hú tôi một tiếng; tôi sẽ đến ngay. Cái gì chứ văn nghệ thì lúc nào tôi cũng sẵn sàng”. Buổi văn nghệ bỏ túi chưa thực hiện được thì tôi đã vào xà lim và sau đó bị giải về A20 Xuân Phước. Anh Trác và Vũ Mạnh Dũng cũng có mặt trong đoàn tù này.
Ngay buổi lên hội trường đầu tiên để nghe giám thị Thân Yên nói chuyện, khi cán bộ giáo dục Hanh thúc bách anh em phải hát ra mắt cán bộ, mừng trại mới, tôi đã nóng mặt khởi xướng cho anh em hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của Nguyễn Đức Quang. Anh em tù hứng chí hát muốn bể hội trường còn giám thị Thân Yên và đám cán bộ thì bực bội ra mặt. Tan họp, tên Thanh thi đua đến hỏi nhỏ tôi:
“Nhạc ở đâu mà khí thế quá nhỉ ?”
Tôi trả lời:
“Nhạc cách mạng Cuba lời Việt. Ở các trại cũ khi có văn nghệ tụi tôi hát hà rầm.” Cán bộ Hanh và Thanh thi đua có vẻ không hài lòng, nhưng có lẽ không có gì nghiêm trọng lắm nên không thấy làm lớn chuyện và sau đó cũng không ai đá động gì đến tôi nữa. Vài ngày sau, vào một buổi chiều se se lạnh (chúng tôi còn đang học nội quy, chưa bị đi lao động) chợt có tiếng hát nơi phòng ăn. Tôi đến nơi thì thấy Rene’ Hanh và Toàn (rỗ), một sĩ quan trẻ, người đàn, người hát bài Lá Đỏ (nhạc bộ đội Trường Sơn). Rene’ Hanh hát khá hay. Giọng ấm, phát âm rõ ràng, ăn nhịp. Bài hát chấm dứt. Một số anh em thưởng ngoạn vỗ tay. Toàn cao hứng tiếp tục với bài Tình Đất Đỏ Miền Đông của Trần Long Ẩn. Khi Toàn hát xong tôi bấm Vũ Mạnh Dũng định chiếm sân khấu làm một phùa văn nghệ “phản cách mạng” thì đã thấy anh Trác bước tới cầm đàn. Người ca sĩ được rất nhiều người ưa thích ở miền nam – không cần giới thiệu - dạo đàn và buông tiếng hát. Giọng anh còn rất ngọt và anh hát bài Lời Nguyện Trong Tù do chính anh sáng tác. Mọi người lắng nghe say sưa. Bài hát vừa hết thì Toàn kéo René Hanh đi và nói khá lớn tiếng:
- Mình đi thôi. Mấy anh ấy hát nhạc không đúng chính sách.
Đụng vào chỗ nhột, những người khác cũng bỏ đi. Và âm mưu gầy sòng của tôi thất bại.

CÓ NGƯỜI VẪN KHÔNG QUÊN

Thế rồi thời gian qua đi. Tôi bị vào xà lim vì dính líu với Nguyễn Huỳnh Danh Vũ trong vụ đánh trật tự Quý Đen. Trước khi đưa hai chân vào cùm tên trực trại bắt tôi cởi hết quần áo chỉ để lại một bộ đồ tù mỏng dính. Rồi mỗi bữa 2 muỗng cơm, 2 muỗng nước. Tôi đã phải chịu đựng những ngày lạnh cắt da trên bệ đá, bị đói, khát đến mờ mắt, mê man. Anh em bên ngoài thì bị xiết chặt kỷ luật đến nghẹt thở; nhất cử, nhất động đều có ăng ten báo cáo; ban ngày lao động, tối về phải họp hành, bới móc, kiểm điểm lẫn nhau. Tôi ra khỏi xà lim đợt một người chỉ còn da bọc xương (theo đúng nghĩa đen), bước đi không nổi, phải bò. Người quen nhìn tôi
ái ngại rồi bỏ đi, không dám nói chuyện vì sợ liên lụy. Tôi ăn khẩu phần kém- được lưng chén cơm và tí nước mắm thối; có miếng bánh bột thì bị cắt mất 1 góc tư- thành khẩu súng lục. Vũ Văn Ánh ăn khẩu phần khá; mỗi bữa ăn đến bỏ vào chén của tôi cái góc tư miếng bánh bột (cắt của người kém cho người khá) và cười nói :
“ráp cho khẩu súng lục của chú mày băng đạn”
Vài ngày sau, anh Ánh, trong một buổi lên hội trường với ban giám thị và hội đồng cán bộ, đã xung phong lên phát biểu. Anh đã dùng thân thể tôi làm đề tài, làm bằng chứng để- rất hùng hồn và cảm động-

1/ Vạch trần những lời giả nhân, giả nghĩa của tên Giám Thị
2/ Lên án chính sách kỷ luật dã man, tàn ác của trại.

Vũ Văn Ánh đã khôn ngoan viện dẫn lời hứa cho tự do phát biểu, viện dẫn chính sách khoan hồng của trại, lạng lách tài tình để không bị vào xà lim lần ấy, nhưng tên tuổi chắc chắn đã được ghi vào sổ đen; và tôi có lẽ cũng bị “văng miểng”.
Trong bối cảnh ấy việc thực hiện show nhạc “phản cách mạng” biểu lộ tinh thần bất khuất, quật khởi với tôi đã đi vào quên lãng. Nhưng có một người vẫn hậm hực, nhất định không quên: Vũ Mạnh Dũng.

LẠI ĐI VÀO QUÊN LÃNG

Khoảng 2 tháng sau bắp hột không biết ở đâu chở về cho chúng tôi ăn, thay thế khẩu phần bánh bột. Tạng người tôi chắc hợp với bắp nên từ bộ xương cách trí cứ từ từ phì lên trông rất dị hợm. Một số bạn nói tôi giống Trư Bát Giới. Còn Nguyễn Đại Thuật đặt cho tôi cái tên rất Tây : Zoọc- Xia. Khi bắp hết, món độn được thay thế bằng khoai mì H34 thì sức khỏe của tôi đã phần nào được hồi phục. Dũng được thăm nuôi, đem đến cho tôi một gói bột bích chi, mấy tán đường và một chén xôi thịt gà. Dũng cười cười hỏi tôi nửa đùa, nửa thật
“ Bây giờ nếu gặp dịp thì còn dám chơi không?”
Tôi nhìn Dũng hát khẽ một câu nhạc của Trần Thiện Thanh
“Anh chưa chết đâu em”
Không ngờ câu nhạc định mệnh ấy sau này là sợi dây cột chặt tôi với Dũng.
Lúc này, mỗi khi lên hội trường ban văn nghệ của trại (có Rene’ Hanh và Toàn rỗ) ngoài những bản nhạc truyền thống cách mạng thường hợp ca một bài tự biên được cán bộ giáo dục rất thích (tôi ghi lại đại khái đoạn đầu- theo trí nhớ)

TIẾNG NÓI TRẠI E

“Đây tiếng nói trại E cùng cất cao lời ca hát mới, thể hiện một quyết tâm mới.
Kính chúc ban giám thị và hội đồng cán bộ được nhiều sức khỏe mới
thực hiện tốt công tác cách mạng đã giao.
Chúc các anh trại viên thi đua lao động, giữ vững nội quy…….”
Dũng bảo tôi
“Mẹ kiếp! Anh thấy không? Nhạc thì dở, lời thì…thối không chịu được. Cái tay nhạc sĩ này trơ trẽn quá. Lúc ở trại Thủ Đức có Vũ Thành An giả chết để thoát xác thành con người mới cách mạng, mình nghe đã chướng tai rồi. Bây giờ tay này còn tệ hại hơn, đem cả những lời bợ đít phổ nhạc. Nghe muốn mửa. Mà họ có phải dân xoàng đâu. Dân trí thức, viết lách cả đấy chứ!”. Ngừng một lát Dũng nói tiếp:
“Kiểu này mình không chơi không được anh Nhì ạ! Mình phải chơi để cho chúng nó biết rằng dân miền nam không phải chỉ có những thằng hèn mà còn có những người vì lý tưởng, vì quê hương đất nước xem cái chết nhẹ tựa lông hồng”.
Lời lẽ có hơi quân tử Tầu, hơi cải lương một tí, nhưng nhìn mặt Dũng tôi biết hắn nói thật lòng. Tôi vỗ vai vuốt giận thằng em và tự hứa nếu có dịp sẽ chơi thật đẹp để nó hả dạ.
Nhưng không khí trong trại ngột ngạt quá. Ăng ten mọc lên như nấm; to nhỏ với nhau một tí là bị báo cáo ngay.
Rồi sự kiện 7 anh hùng đội 14 cướp súng cán bộ vũ trang ra đi không những gây chấn động trong trại mà cả đến công an tỉnh Phú Khánh cũng phải vất vả phân bổ lực lượng truy lùng.
Rồi vụ Cái Trọng Ty, Phùng Văn Triển bị đánh dẫn đến màn “ No Eat, No Work”của nhà 2 thật ngoạn mục. Tôi rất cảm phục các anh Ngân (cựu Trung Tá) và anh Tùng (cựu Thiếu Tá) đã bình tĩnh ngấm ngầm lãnh đạo anh em đối đầu với chính sách đàn áp sắt máu của giám thị, phân trại trưởng, an ninh, trực trại và cả đám cán bộ võ trang- và trong một chừng mực nào đó- các anh đã thành công.
Các hoạt động đấu tranh, phản kháng trong trại- truyền đơn, khẩu hiệu- liên tục xảy ra. Trong bối cảnh đó tờ Hợp Đoàn- tờ báo viết tay có một bản duy nhất- được Vũ Văn Ánh cho ra đời. Đám an ninh trại không có bằng chứng cụ thể, rõ ràng nhưng đã đánh hơi thấy mùi lạ. Khi nhân loại đón mừng tết tây 1982 thì tôi đã vào xà lim một lần nữa và trở thành bại liệt. Vũ Văn Ánh, Đoàn Bá Phụ, Quý (đầu bạc), Khúc Thừa Văn, Phạm chí Thành và một số nhân vật có tư cách lãnh đạo cũng bị bắt một cách vô cớ và bị đưa đi biệt giam dài hạn. Lời tự hứa trong lòng tôi làm hả dạ thằng em Vũ Mạnh Dũng, vì lý do an ninh, một lần nữa lại đi vào quên lãng.

BA THẰNG GÂY MÁU LỬA

Ngày mồng 1 Tết năm Nhâm Tuất ( 1982 ) tôi đang ngồi nhâm nhi mấy lát khoai mì H34 thì Ngọc Đen và Hải Bầu chạy vào, mặt vô cùng phấn khích. Ngọc lên tiếng:
“Ở trại giờ vắng hoe, chỉ còn 1 thằng võ trang ở tít cổng ngoài; chắc tụi nó tụ họp ăn nhậu ở khu trung tâm. Mày tính sao?”
Tôi vẫn chưa hiểu ý Ngọc Đen nên hỏi lại:
“Tính cái gì?”
Hải Bầu chêm vào:
“Tụi tui tính nói với ông ( tôi không thân với Hải nên vẫn gọi nhau là ông, xưng tôi )nhân dịp này làm một buổi văn nghệ long trời lở đất, không phải e dè gì nữa , chơi tới bến luôn”.
Thấy tụi nó hăng quá tôi cũng nao nao. Tuy nhiên tình trạng sức khỏe của tôi lúc đó rất bết bát. Sau 2 lần bị cùm trong xà lim phân trại E, lần nào cũng dài hạn, vào thời điểm mà giám thị Thân Yên và phân trại trưởng Lê Đồng Vũ áp dụng chính sách kỷ luật khắc nghiệt, tàn ác, dã man nhất, thân thể trai trẻ, cường tráng của tôi đã xuống cấp trầm trọng. Chân không bị liệt thật nhưng đã tê, mất cảm giác, đi lại ( không chống nạng ) được nhưng khó khăn.Cơ tròn rối loạn; nhiều lúc không kiểm soát được hậu môn, đường tiểu và cả việc xuất tinh. Phổi bị chấn thương đã thành lao; thỉnh thoảng lại khúc khắc ho ra máu.
Tôi nhẹ nhàng lên tiếng thoái thác:
“Chắc tao phải lặn lần này quá. Lỡ có gì vào xà lim lần nữa chắc chịu không nổi”.
Hải Bầu buồn ra mặt. Ngọc Đen thái độ bình tĩnh, không thúc bách tôi.
“Anh em tụi tao muốn chơi lắm, nhưng cũng tùy mày. Cứ suy nghĩ đi rồi khoảng nửa tiếng sau, yes hay no cho tao biết”.
Vũ Mạnh Dũng lò mò tới, vào đề ngay :
“Anh em mình chờ đợi mấy năm nay mới có dịp này. Cơ hội bằng vàng đấy. Bỏ qua rồi sau này sẽ hối tiếc”.
Tôi vẫn bàn ra:
“ Dũng à! Nhưng mình thấy yếu lắm. Sợ chịu không nổi.”
Dũng phang ngay một câu đâm vào tim tôi đau nhói :
“Mới hôm nào còn ‘anh chưa chết đâu em’, bây giờ đã muốn chui vô hòm rồi”.
Thấy câu nói của Dũng đã làm tôi dao động, Ngọc Đen đưa ra đề nghị:
“Vấn đề an ninh tụi tao sẽ lo hết. Tất cả sẽ bảo vệ mày tối đa. Có gì tụi tao sẽ chia nhau nhận hết. Bằng mọi cách không để mày vác nạng vô xà lim một lần nữa.”
Tôi định phang vào mặt nó :
“ Khi bể ra, tụi an ninh sẽ điều tra, moi móc không sót một mống, ở đó mà bảo vệ tối đa với chia nhau nhận hết “, nhưng thấy nó thật tình quá nên lại thôi. Vả lại, tôi cũng không còn đường rút lui nữa. Tôi hỏi Ngọc Đen :
“Chơi ở đâu? Và bao giờ chơi?”
“Nhà 3 mình.” Ngọc trả lời ngay không cần suy nghĩ.
“Tụi tao tính một tiếng nữa sẽ bắt đầu. Làm sao phải xong trước giờ lãnh cơm trưa”.
Dũng đi thẳng vào chi tiết:
“Tôi sẽ lo cung cấp đàn (guitar thùng). Muốn mấy cây cũng có”.
À thì ra thằng em nằm vùng ở đội văn nghệ mấy tháng nay, bây giờ đã có dịp dùng đến các mối quen biết của mình. Dù có quen biết hay không đây cũng là trách nhiệm rất lớn. Chỉ những tên gan cùng mình hoặc uống thuốc liều mới dám đưa lưng ra nhận cái quả tạ này. Nếu bể ra, không những bị kết tội tụ tập hát nhạc chống chế độ mà còn lãnh thêm tội cung cấp nhạc cụ và còn bị nghi ngờ là nằm trong ban tổ chức. Nó không bắn bỏ thì cũng gỡ lịch không biết ngày tháng nào mới hết.
Tôi nhớ đến vai trò của mình và nói với Ngọc Đen:
“Dũng chơi một cây, cây thứ hai giao cho Hải Cà. Còn cây nào nữa thì để sơ-cua”
Tôi nghĩ đến Phạm Văn Hải- tự Hải Cà- anh cựu sinh viên văn khoa đàn giỏi, hát hay và vẽ đẹp. Hải đệm accord vững,có hồn, đặc biệt là những bài chậm hoặc vừa. Anh biết nhạc lý và cũng sáng tác nhạc. Tôi đã nghe anh đàn và hát bài Xin Hẹn Một Mùa Xuân do chính anh sáng tác. Anh có bìệt hiệu là Hải Cà vì một lẽ rất dễ hiểu : anh nói cà lăm. Những lúc hào hứng hoặc tức giận anh cà….hết chỗ nói, có khi cả phút không rặn ra được một câu trọn vẹn. Nhưng khi anh hát thì…. hết ý. Không cà một chút nào. Cảm xúc từ tâm hồn anh qua tiếng hát cứ tuôn trôi như môt dòng sông.
Ngọc Đen và Dũng lược qua cho tôi danh sách những nghệ sĩ nhận lời tham dự cuộc chơi cùng những tác phẩm họ dự định trình diễn. Tôi ngạc nhiên, và rất mừng, khi thấy trong số những người chơi có tên Vũ Trọng Khải. Lúc mới đến A 20 Khải ăn chung với nhóm Vũ Văn Ánh, Đoàn Bá Phụ, Nguyễn Đại Thuật. Cũng giao tiếp, trò chuyện với anh em cởi mở, vui vẻ. Sau này, khi tình hình an ninh căng thẳng anh lui về ốc đảo của mình, không tham dự bất cứ sinh hoạt có vẻ dấn thân nào với anh em. Thái độ của anh là “thủ khẩu như bình, trùm mền kín mít”. Thật ra anh chẳng làm hại gì đến anh em bạn tù, vẫn giữ tư cách của một cựu đại úy cảnh sát, nhưng bên cạnh một Vũ Văn Ánh lý tưởng, xông xáo, vị tha, hết lòng với bè bạn, Vũ Trọng Khải có vẻ như chỉ biết ích kỷ lo cho thân mình. Giờ đây dám chấp nhận tham dự một trò chơi nguy hiểm- mà hậu quả có thể sẽ rất thảm khốc, có khi là tính mạng của mình- Vũ Trọng Khải chắc chắn sẽ được anh em nhìn với cặp mắt hoàn toàn khác.
Tôi nhắc Dũng cho anh em thử giọng với đàn trước khi chơi để chọn “tông” thích hợp- tránh tình trạng có nốt cao quá lên không nổi, có nốt thấp quá xuống không được. Trước khi anh em đi chuẩn bị tôi yêu cầu được gặp Bùi Mạnh Bái. Tôi muốn đưa bản Nếu Quả Ta Là Người vào chương trình nhưng Ruyệt thì không lên A 20, Nguyễn Hưng Đạo, Hoàng Ngọc Thủy đã được về trước Tết. Chỉ còn Bùi Mạnh Bái.Tôi có nghe Bái hát bộ (không đàn) bài này vài lần. Bái không biết nhạc lý, nhịp nhàng không vững, lại khớp trước đám đông nên tôi muốn check anh một lần cuối trước lúc mở màn. Bái đến hát thử cho tôi nghe một đoạn rồi anh thoái thác :
“Mình không biết nhịp- lại phải hát trước đám đông lớn quá, sợ bể bản nhạc rồi bể cả chương trình của anh em”.
Tôi đồng ý loại bỏ bản Nếu Quả Ta Là Người nhưng vẫn mời Bái hát Gọi Đàn chung với một số bạn tù khác. Nghĩ đến nhà 3 tôi nhắc Ngọc Đen đối phó với Trần Thái Viên. Trần Thái Viên là một tên vô lại, không còn chút liêm sỉ nào, làm ăng ten ra mặt. Ngọc Đen phải lùa hắn đi chỗ khác thì anh em mới yên lòng vào trận. Còn Quang què nhảy dù, một số anh em cũng đồn hắn làm ăng ten nhưng Nhàn Cụt – cùng thuộc loại ở nhà không đi lao động như Quang- nhiều lần nói với tôi :
“ Tui ở sát cánh với hắn. Mấy tháng nay chưa thấy hắn nói chuyện riêng với trật tự hay cán bộ nào. Chắc không có chuyện ăng ten đâu”. Trước khi đi chuẩn bị Ngọc Đen còn dặn với lại:
“Tao sẽ lo vụ Trần Thái Viên. Nhưng nhớ là phải có phút mặc niệm long trọng cho 7 anh hùng đội 14 nghe mày”.
Vụ cướp súng tìm tự do của đội 14 xảy ra đã hơn một năm mà sao với người tù ở phân trại E chúng tôi, hình như mới xảy ra tuần trước, hôm qua. Ai cũng muốn trong chương trình văn nghệ phải có một cái gì đó về sự kiện quan trọng này. Tôi có cảm giác là mục đích chính của các bạn tù đến xem văn nghệ hôm nay là được đích thân tham dự buổi lễ tưởng niệm và truy điệu các anh hùng trong lòng họ.

Tôi thấy tội nghiệp Ngọc Đen. Nó như ông bầu gánh hát, chạy đôn chạy đáo hết chỗ này tới chỗ kia. Có thể nói mọi chuyện tạp nham đều đổ hết lên đầu nó. Cũng may, nó có một số bạn tù trung kiên trong mạng lưới phát hành của tờ Hợp Đoàn giúp đỡ , nếu không, mình nó làm sao cáng đáng hết mọi việc; từ việc làm gạch nối giữa tôi với các anh em ca sĩ, tổ chức cho khán giả từng người, từng nhóm nhỏ đi vào phòng trình diễn, đến việc tổ chức canh phòng, báo động, bảo vệ cho buổi trình diễn; rồi khi kết thúc phải lo cho khán giả giải tán lớp lang, thứ tự. Ôi! Một thằng lính trẻ như nó, không mưu đồ chính trị, hành động chỉ vì trái tim đầy nhiệt huyết của mình đang thôi thúc, hành động vì muốn bảo vệ danh dự cho màu áo của binh chủng mình, hành động vì mình là thanh niên Việt Nam, trước bạo lực, cường quyền ngạo nghễ đứng lên.

Trong 3 thằng đầu têu trong trò chơi này Vũ Mạnh Dũng có hào khí của một kẻ sĩ “ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”. Ngọc Đen có hùng khí của người lính trẻ- lính biệt cách dù- chơi cho xứng đáng với màu áo binh chủng. Hai tên này một văn, một võ sẵn sàng ngẩng mặt bước vào biển lửa. Hải Bầu thì hơi khác. Hắn hối thúc mở cuộc chơi là để có cơ hội chiến thắng chính mình, vượt lên trên chính mình. Các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Nguyễn Văn Phú đã lấy cái chết của mình để bảo dưỡng sĩ khí của quân dân miền nam, nếu vong hồn còn lẩn khuất đâu đây, thấy 3 đứa nó chắc cũng mỉm cười hài lòng. Bởi tụi nó đẹp quá, hùng dũng hiên ngang quá. So sánh với tụi nó tôi bỗng thấy thèn thẹn trong lòng. Tôi- nói như một câu tục ngữ - “ vừa đéo vừa run “, bước vào cuộc chơi rụt rè, miễn cưỡng chứ không có được cái dáng dấp oai phong như tụi nó.

TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN

Thế là anh em mỗi người một ngả chuẩn bị cho trận đánh xả láng- chơi tới bến. Còn khoảng nửa tiếng nữa mới đến giờ ra quân. Tôi nằm trùm mền điểm lại lực lượng của anh em mình. Thay cho phút mặc niệm có tính hình thức và truyền thống tôi định mở đầu với bài thơ Theo Những Bước Chân viết về 7 anh hùng đội 14. Bài thơ tôi viết để kỷ niệm một năm ngày các anh ngã xuống trên đường đi tìm tự do. Định đưa cho Alfa (Vũ Văn Ánh) bỏ vô chiếc Honda (Hợp Đoàn) mới, nhưng Alfa giờ thì biệt tăm trong xà lim , còn xe Honda thì cũng xì ạch, xì đụi. Bài thơ đã được tôi sửa đi, sửa lại, đánh bóng kỹ lưỡng và thuộc như cháo. Tuy nhiên hiệu quả cảm xúc nơi khá thính giả thì phải chờ lúc chơi thực sự mới biết được. Bài Xin Hẹn Một Mùa Xuân của Phạm Văn Hải thì không phải lo lắng gì. Tác giả tự đệm và hát nên không sợ thiếu phối hợp giữa tiếng đàn và tiếng hát. Hải lại là dân chơi dày dạn , coi đám đông như cỏ rác, nên tôi rất tin vào sự thành công của bài hát. Bài Mưa Trên Ngục Tù của Nguyễn Hưng Đạo do Dũng hát cũng chắc ăn. Tôi đã xem Dũng trình diễn bài này cả chục lần ở Z30D, không lần nào bị sai sót gì. Trần Kim Hải sẽ hát Niềm Tin Từ Thung Lũng Khổ Sai. Bài hát được TĐL sáng tác ngay tại phân trại E Xuân Phước. Giọng Trần Kim Hải hợp với bài hát này. Tôi đã nghe hắn hát nhiều lần với sự đệm đàn của Dũng hoặc Hải Cà. Lần nào cao hứng, thả hết hồn vào bản nhạc thì Hải hát tuyệt vời; nhưng cũng có lần, không biết vì lý do gì, hắn hát không được như ý lắm. Tôi hy vọng với đám khán thính giả cuồng nhiệt cổ vũ, Trần Kim Hải sẽ hát bài hát thành công. Trần Kim Hải cũng rất thích 2 bài hát của anh Trác là Lời Nguyện Trong Tù và Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về và hắn hát cũng được lắm. Nhưng lại đụng Vũ Trọng Khải. Khải có giọng hát khỏe và sang rất hợp với 2 bài ấy, nên tuy biết có thể Hải sẽ hơi buồn tôi vẫn quyết định dành cả 2 bài cho Vũ Trọng Khải. Còn một tay ham chơi văn nghệ nữa là Bùi Đạt Trung, khóa 25 VBĐL. Các bạn người miền trung thường nói “ mâm mô cũng có hắn “ nghĩa là không có cuộc tụ họp nào là không có bản mặt rất dầy của hắn mò tới. Và hễ yêu cầu là hắn hát ngay, không ngại ngùng né tránh. Hắn có một bài hát tủ là bài Proud Mary, nhạc ngoại quốc chế lời Việt. Bài hát có 3 đoạn trong đó đoạn thứ 2 nói về việc được phân công đi nấu bếp, tôi không thích lắm. Nhưng nhìn đi, nhìn lại, thấy lực lượng mình mỏng quá nên đành phải đưa Bùi Đạt Trung vào trận.
Cá nhân tôi, sau hơn 6 năm lang bạt hết trại tù này đến trại tù khác, đã tập hợp được khá nhiều tù ca; từ những bài nội dung còn ngây thơ tin tưởng vào lời hứa 3 năm của cộng sản (Người Về Sau 3 Năm) đến những bài hết mực bi quan, không còn mong sẽ có ngày trở về (Tù Ca Số 1 của Trần Thiện Thanh Toàn) ; rồi dần dần có những bài hát lóe lên niềm tin vào tương lai và cả những bài hát quật khởi, thôi thúc mọi người đứng lên trực diện với quân thù, đòi lại quê hương. Tôi có thể “ bao giàn “ cả chương trình 2 tiếng đồng hồ mà không cần ai tiếp sức. Nhưng ở đây anh em muốn có một chương trình của mọi người; mỗi người đóng góp một chút khả năng của mình, để biểu lộ sự đoàn kết, quật khởi của toàn trại. Do đó, tôi một mặt phải giữ sự xuất hiện của mình trong chương trình ở mức tối thiểu, một mặt phải tạo ra một chương trình có độ dài tương đối, đủ để gây hiệu quả cảm xúc tối đa nơi khán thính giả. Nhưng ở thời điểm đó, lúc 3 tên Ngọc Đen, Hải Bầu, Vũ Mạnh Dũng giao nhiệm vụ cho tôi, thì lực lượng của anh em mình (mà tôi tác động được) chỉ có thế.
Sau này tôi được biết Trần Đắc Thắng cũng sáng tác một số bản nhạc có tinh thần đối kháng và chính anh cũng hát rất hay. Rồi ở đội văn nghệ có bạn đã cho ra đời bản nhạc Bảy Cánh Chim Bay Vào Khoảng Không. Nhưng đó chỉ là sau này tôi mới biết. Còn lúc đó, một phần do tình hình an ninh nghiêm ngặt, ăng ten dầy đặc, ban giám thị trại tạo ra không khí nghi ngờ, chia rẽ, không ai dám tin vào ai, một phần các bạn mình nhiều khi cũng kỹ quá, kín tiếng quá, nên lúc đụng chuyện mình không nắm hết được lực lượng của mình.
Thôi thì đành phải “có gì chơi nấy” vậy.
Tôi tưởng tượng mình là một khán giả đang ngồi xem. Những lời thơ, tiếng hát của các bạn (và tôi) lúc từng giọt, từng giọt, lúc ào ào như thác đổ thấm vào tim mọi người. Tôi thay đổi thứ tự xuất hiện của các bạn mình để cuối cùng có một chương trình- ít nhất theo ý tôi- đủ để các bạn tham dự cuộc chơi cảm thấy mình đã chơi tới bến, và những người xem, người nghe, cảm thấy nhớ hoài.
Tôi mở mắt. Có tiếng chân của Ngọc Đen và Vũ Mạnh Dũng. Tôi đọc vội chương trình cho hai bạn nghe. Phải lập đi, lập lại 3 lần hai ông thần nước mặn mới thuộc lòng và đi thông báo cho các ca sĩ, nhạc sĩ có tên trình diễn.

VÀO TRẬN

Tôi ra hiệu cho Nhàn (cụt) lúc đó đang ngồi ở tầng dưới đưa cặp mắt sắc như dao theo dõi động tịnh. Không biết ai đó đã giúp Nhàn và tôi trèo lên tầng trên nằm trùm mền, giả bộ ngủ. Một lúc sau ca sĩ, nhạc sĩ, khán thính giả lần lượt đi vào phòng. Nhàn và tôi ngồi dậy. Tôi đưa mắt nhìn đám đông. Ai cũng mặt mày phấn chấn, hứng khởi nhưng lại lặng im như đi dự một đám tang, tự động tìm chỗ ngồi, không ồn ào, chen lấn. Vũ Trọng Khải đã bệ vệ ngồi dựa vào tường. Hải Bầu và Tuấn Nhí ngồi ở mép ngoài tầng trên, đối diện với tôi. Bùi Đạt Trung ngồi cạnh Ngọc Đen và Ngô Quốc Việt phía bên trái tôi. Bên phải tôi, Vũ Mạnh Dũng, Hải Cà đã cầm đàn và nhè nhẹ thử dây.
Tám Chùa cũng kiếm được chỗ ngồi ở góc tường xa bên trái. Tầng trên phía bên kia lối đi cũng đã đầy 3 hàng người. Hai bên tầng dưới cũng có nhiều người ngồi; họ chấp nhận là thính giả của chương trình vì ngồi như vậy không thể nào thấy mặt ca sĩ được. Trần Danh San không có chỗ ngồi phải đứng với đám đông đến sau ở giữa lối đi, ngước cổ nhìn lên. Đông quá. Và rất nhiều khuôn mặt lạ. Không thấy Trần Thái Viên. Tôi thầm cám ơn Ngọc Đen đã lùa hắn đi chỗ khác để anh em yên tâm vào cuộc chơi. Không khí yên lặng một cách trang trọng. Không có ai nói lớn tiếng. Không có cả tiếng thì thầm nói chuyện.

Để bọn an ninh không thể tìm ra được người cầm đầu, người tổ chức - Ngọc Đen yêu cầu buổi văn nghệ không có người giới thiệu, không có MC. Mỗi người đều biết vị trí của mình trong chương trình, cứ theo đó mà hành động. Sợ anh em quên, trước tiết mục của người nào tôi đưa mắt nhìn người ấy; anh ta laị đưa mắt nhìn Vũ Mạnh Dũng, nhạc sẽ trổi lên, và tiết mục bắt đầu. Đã không còn bước chân đi lại trong nhà nữa. Mọi người đã ngồi ( hoặc đứng) vào chỗ của mình và im lặng, kiên nhẫn chờ đợi. Tôi chờ thêm một phút nữa để tăng thêm sự chú ý của khán thính giả rồi hít một hơi dài chuẩn bị bắn phát súng đầu tiên mở màn trận đánh.
Ai cũng tưởng là sẽ có nghi thức phút mặc niệm truyền thống đặc biệt dành cho các anh hùng đội 14. Thay vào đó tôi đã cất cao giọng:

“Hỡi những con người dũng cảm
hôm nay đây anh em bè bạn
kỷ niệm một năm
ngày các anh
đã ghi một điểm son vào trang sử đấu tranh
trong ngục tù cộng sản
làm sao chúng tôi quên được các anh
và buổi chiều hôm đó
tháng 11 miền trung trời lộng gió
dáng các anh trông lam lũ hiền lành
tên công an võ trang
đang thả hồn vào một khoảng trời xanh
có biết đâu
các anh chợt biến thành sư tử
không một giây do dự
lao thẳng tới quân thù
chiếc nón cối vàng- biểu tượng của ngục tù-
cùng với xác tên công an đổ xuống”

Đến đây khán thính giả của tôi đã hiểu tôi đang hát về 7 anh hùng của họ ở đội 14. Những khuôn mặt đanh lại. Những đôi mắt mở to. Những chiếc mồm há hốc. Những bàn tay nắm chặt.

“khẩu AK giờ trở thành bầu bạn
theo các anh trên mỗi bước tự do
bỏ lại sau lưng
quân thù điên vì tức giận
và đồng đội mừng vui đến độ sững sờ.
đêm ấy trời đổ mưa
giữa núi rừng rét mướt
vẫn lầm lũi bay đi
bảy cánh chim phiêu bạt”

Tôi đưa các bạn tù theo từng bước chân của những con người dũng cảm. Khoảng 100 người – không, có lẽ còn hơn con số đó- im phăng phắc uống từng lời thơ của tôi, không muốn bỏ sót một đoạn nào của cuộc hành trình bi tráng.

“rồi tin vui lại về
các anh hạ thêm quân thù trên đường vượt thoát
tên xã đội trưởng mang nhiều tội ác
với dân lành
bị đền tội trước các anh
thêm khẩu K54 theo làm bạn đồng hành
chúng tôi nửa mừng, nửa lo
nhưng vẫn đầy hy vọng”

mắt các bạn sáng lên, nhưng rồi lại trĩu nặng buồn khi nghe đến đoạn bi thương

“nhưng tin lại về như sét đánh ngang tai
ruột chúng tôi thắt lại
những anh hùng tưởng sẽ còn đi mãi
đã phải mang số phận đau thương”

Các anh chấp nhận nằm xuống trong tư thế người lính giữa chiến trường khói lửa.

“hơn 5 năm trong ngục tù lặn lội
các anh mới làm chủ được đời mình
vỏn vẹn 13 ngày ngang dọc tung hoành
rồi trở về với đất trong tư thế người chiến sĩ”
Biết bao người đau thương , tiếc nhớ các anh

“để lại vô vàn tiếc thương cho mẹ
cho cha, cho anh em, cho đồng đội, bạn bè
Ôi! biết tìm ở đâu?
Và biết lấy những gì?
để bù đắp nỗi đau buồn, mất mát
cho cái chết
của những anh hùng”.

Các anh chết trong bối cảnh quê hương còn điêu tàn, người dân còn đau khổ. Nhưng chính cái chết của các anh lại thắp sáng niềm tin trong lòng mọi người

“Tổ quốc chúng mình bây giờ
cả những bông lúa, những cây ngô
cũng khao khát được tự do
phất phơ trong gió
mà không bị những đôi mắt từ đâu đó
nhìn soi mói từng phút từng giờ
mới ngậm sữa đã lăm le chờ thu thuế.
người dân Việt hôm nay
nỗi khổ đau đã hằn trên khuôn mặt
thấm vào thịt da
tràn ra khoé mắt
và trong cả nụ cười
nhưng niềm tin vào một ngày mai
đang rực sáng trong lòng người đi tới
bởi mặt đất giờ vẫn còn nóng hổi
máu xương các anh vẫn đốt lửa căm thù”.
Và những khát khao cháy bỏng trong tim các anh:

“tâm hồn các anh vẫn khao khát đem tự do
ấm no
hạnh phúc
cho cả 50 triệu người đang cùng cực
dưới vuốt nanh của lũ qủy hung tàn”.
Những khát khao cháy bỏng ấy sẽ truyền lại cho chúng tôi. Và chúng tôi sẽ đi tiếp đoạn đường các anh chưa đi hết.
Cuối cùng là lời chào vĩnh biệt:

“Thôi hãy nằm im
giữa lòng đất mẹ
để lắng nghe những bước chân tươi trẻ
của chúng tôi, đồng đội các anh
trong tim cũng mang nỗi khao khát chân thành
nỗi khao khát của các anh
vững vàng đi tới”.

Tôi đưa tay chùi vội đôi mắt mình đã nhòa lệ. Khán giả của tôi cũng không ít người đưa tay chùi nước mắt. Có người còn để những giọt lệ đọng lại trên má, trên khóe mắt. Bài thơ đã nói hộ các bạn những điều ấp ủ trong lòng từ hơn một năm nay, đã chạm đúng những sợi dây thần kinh sâu kín. Có tiếng vỗ tay lốp bốp của một số khán thính giả chưa được phổ biến mật lệnh “ không được vỗ tay. “ Tôi giơ tay lên ra hiệu và tất cả lại im lặng chờ đợi. Tiếng đàn của Vũ Mạnh Dũng nhè nhẹ vang lên như thì thầm nhắc nhở. Và tôi cất tiếng hát:

“Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây, đã vui chơi trong cuộc đời này, đã bay cao trên vòm trời này, rồi nằm xuống……”

Tôi mượn lời Trịnh Công Sơn để khóc thương đồng đội của mình. Trịnh Công Sơn viết bài này cho tướng Lưu Kim Cương, nhưng khán thính giả của tôi đâu cần biết Trịnh Công Sơn là ai, Lưu Kim Cương là ai. Họ đang hướng về đồng đội của họ, bạn bè của họ. Sáu anh em ngã xuống như những anh hùng. Mà trong số anh hùng của họ chẳng phải cũng có trung úy không quân Trần Lưu Úy đã từng lái F5 “bay trên vòm trời này” đó sao? Nhàn Cụt nhìn tôi gật gù tỏ ý tán thưởng. Ngô Quốc Việt há hốc mồm nghe những lời hát về một vị tướng trong binh chủng mình. Tên “giặc lái” này đang nghĩ gì? Đến Trần Lưu Úy, Lê Thái Chân ? Hay đang thả hồn về dĩ vãng? Về những ngày vi vút ở các sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Nha Trang? Tôi Không biết. Nhưng được hát trước những khán giả như thế này người hát có hứng và hát rất dễ có hồn. Khi tôi hát đến đoạn cuối
“xin cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời….thênh…..thang” thì không khí chùng xuống. Có tiếng thở dài nhè nhẹ. Có những cái đầu gục xuống. Bài thơ và bản nhạc đã quyện với nhau thành một nghi lễ tưởng niệm trang nghiêm, khác hẳn với phút mặc niệm truyền thống chỉ có tính chất hình thức. Tôi nhìn khán giả- bè bạn, anh em của mình – và cảm nhận được rằng 2 tiết mục đầu (tuy 2 mà 1) đã thành công.
Tôi nhìn Bùi Đạt Trung. Tên cựu Trung Úy Biệt Động Quân (khóa 25 VBĐL) biết tới phiên mình ra trận cũng đã cựa quậy mình chuẩn bị. Tiếng nhạc trổi lên và Bùi Đạt Trung hát: (nhạc: Proud Mary, lời chế)

“Dù đời nhọc nhằn trong vòng cải huấn.
Anh với tôi ta cùng quyết tâm phấn đấu.
Dưới chính sách khoan hồng làm ta khóc mãi.
Nên khi chúng bắt ta khai, nhất trí ta đừng khai dài dòng.
An tâm ( an tâm ). An tâm ( an tâm ). Nhưng còn tin mù mờ”.

Tuy lời lẽ chế ra không được văn vẻ lắm nhưng đã nói lên một thái độ chính trị chống lại khẩu hiệu của cộng sản là “ an tâm cải tạo, thành khẩn khai báo “. Tốc độ hành âm của bản nhạc nhanh, cường độ mạnh, lại giật giật, nên một số bạn trẻ nhấp nhổm, lắc lư, có vẻ khoái chí. Bùi Đạt Trung hát tiếp đoạn 2 một cách hào hứng.

“Rồi một ngày ta được phân công đi nấu bếp.
Anh với tôi ta cùng quyết tâm dũa cháy.
Nhưng hãy coi chừng thằng ăng ten nó đứng đấy…”.

Không thái độ chính trị nhưng khá vui nhộn. Đến đoạn 3 thì tên cựu Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân hát rất khởi sắc

“Rồi một ngày ta được phân công đi vùng kinh tế mới.
Anh với tôi ta đừng băn khoăn bối rối.
Nhưng hãy coi chừng âm mưu sắp tới.
Nên khi chúng bắt ta đi, nhất trí ta cùng nhau ù lì.
Không đi ( không đi ). Không đi ( không đi ). Muốn làm chi thì làm”.

Đây là thái độ chính trị chống chính sách kinh tế mới. Thú thật, tôi không đặt hy vọng vào bài hát này nhiều lắm. Nhưng thật lạ! Bùi Đạt Trung hát xuất thần, lôi cuốn khán giả. Cuối mỗi đoạn đều có tiếng cười nổi lên. Khi bài hát chấm dứt, khán giả thì hả hê, vui vẻ, còn tên cựu Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân ngồi dựa vào tường, mặt đỏ bừng, bẽn lẽn. Tôi nhìn hắn gật đầu khích lệ vì hắn đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Khi tôi đưa mắt qua hướng Vũ Trọng Khải thì Vũ Mạnh Dũng bắt đầu dạo đàn; khúc nhạc dạo đầu của Dũng vừa về chủ âm thì Khải đã cất tiếng hát, rất ăn nhịp:

“Có con chim nhỏ trên hàng rào kẽm gai.
Đứng im than thở; cuộc đời còn có ai?
Này chim có biết nơi đây sống kiếp đọa đày,
sống không ngày mai, như kiếp cỏ cây.
Có ngôi sao nhỏ trên bầu trời giá đêm.
Suốt đêm không ngủ thương ngục tù tối đen.
Nhờ sao đem đến tin vui tới khắp mọi người.
Chúa đã giáng sinh cứu rỗi trần ai”.

Giọng của ông cựu quan 3 cảnh sát khỏe, ấm, phát âm rõ ràng, đưa từng lời tâm sự của Khuất Duy Trác đến với anh em tù. Sáng mồng 1 tết ở Xuân Phước trời vẫn còn lạnh; một vài anh em đến dự khoác thêm áo ấm. Không khí có vẻ cũng Noel lắm nên phần đầu bài hát của anh Trác được đón nhận một cách tự nhiên. Rồi Vũ Trọng Khải vào điệp khúc ở cung Trưởng :

“Xin Chúa hãy vỗ về, ru no tròn giấc ngủ trẻ thơ.
Xin một giấc mơ lành cho mẹ già từ lâu mong nhớ.
Xin nguyện cầu cho vợ hiền lẻ bóng nơi xa.
Xin nguyện cầu, xin nguyện cầu cho cuộc đời vang tiếng tình ca.
Hãy cho tôi khóc bằng mắt Maria,
những cuộc đời khổ đau tăm tối.
Hãy cho tôi khóc bằng mắt Maria,
những cuộc tình bơ vơ tóc rối.
Xin quét hết lũ người sống hận thù, không óc, không tim.
Xin tiếng hát nụ cười cho mọi người được sống bình yên”.

Tôi thấy có những đôi mắt rưng rưng lệ. Ai chẳng có mẹ già, vợ hiền, con thơ.
Chính lũ người “ sống hận thù, không óc, không tim “đã làm bao gia đình ly tán. Ôi! Chỉ một lời nguyện cầu đã khơi dậy nỗi đau thương của hàng trăm con người; chỉ một lời nguyện cầu đã nhẹ nhàng nhắc nhở người nghe đứng vào vị trí của mình - vị trí của cái thiện- để chống lại cái ác. Vũ Trọng Khải trở lại điệp khúc một lần nữa rồi chấm dứt ở Coda:

“ Vinh danh Thiên Chúa! Vinh danh Thiên Chúa! A – men”.

Rất nhiều người hòa chung tiếng hát “A….men” như kết thúc một bài hợp ca lớn. Tôi nghĩ tiếng vỗ tay sẽ vang dậy nếu không có cái quy định kỳ quái của Ngọc Đen và Vũ Mạnh Dũng. Khán giả của chúng tôi đành phải lặng yên nhìn Vũ Trọng Khải một cách ngưỡng mộ và thán phục.
Phạm Văn Hải nháy mắt cho tôi như muốn thông báo là hắn đã biết đến lượt mình ra sân. Âm vang bài hát Lời Nguyện Trong Tù tan hết mà tên cựu sinh viên văn khoa này vẫn chưa dạo đàn. Hải sẽ hát bài Xin Hẹn Một Mùa Xuân do chính anh sáng tác. Tôi chọn bài hát này để gieo vào lòng các bạn tù bi quan một niềm hy vọng, một niềm tin vào tương lai. Tiếng đàn của Hải Cà bây giờ mới vang lên. Và hắn cất tiếng hát:

“Xin hẹn một mùa xuân. Mùa xuân rồi sẽ tới.
Xin hẹn một mùa xuân, dù đời còn đen tối…”

Giọng Huế rõ ràng và ngọt ngào. Có những chiếc đầu ngả vào vai người bên cạnh tìm một chỗ dựa, tìm một chút hy vọng ở tương lai, dù hiện tại đang bị những bức tường, những hàng rào kẽm gai vây kín. Khi Hải bước vào điệp khúc

“Ôi! Tiếng hát còn xót xa,
lời ca còn bỡ ngỡ,
đêm còn nhiều thương nhớ.
Ôi! Ngày tháng rồi sẽ qua,
nhọc nhằn rồi sẽ hết,
đời không còn chia xa”.

Có những đôi mắt nhắm laị. Cũng có những đôi mắt mở to. Bạn tù của tôi đang thả hồn vào khung trời mộng mơ nào đó. Và rồi phiên khúc cuối:

“Xin hẹn một mùa xuân. Mùa xuân rồi sẽ tới
Xin hẹn một mùa xuân. Không còn gì ngăn lối.
Tất cả lời yêu thương trao nhau ngày hò hẹn.
Ta sẽ cùng một đời thắp sáng tình quê hương”.

Hải trở lại điệp khúc một lần nữa rồi kết thúc ở phiên khúc cuối.

“ ….. ta sẽ cùng một đời thắp sáng tình… quê…. Hương”

Lời hát đơn giản, nhẹ nhàng mà dễ thương quá! Giọng ca Phạm Văn Hải ngọt ngào quá! Niềm tin, niềm hy vọng của anh theo tiếng hát lan tỏa đến mọi người. Niềm tin, niềm hy vọng của anh như những hạt mưa bụi rơi trên mặt và cuối cùng đọng lại ở đôi mắt các bạn tù. Tôi thấy mặt các bạn hình như tươi thêm một tí, mắt các bạn hình như sáng thêm một tí.
Hải Bầu đang ở thế ngồi thoải mái bỗng xích mông tới trước, thẳng người lên, như báo cho tôi biết là đã sẵn sàng. Tuấn Nhí ngồi bên cạnh cũng có vẻ háo hức chuẩn bị theo dõi phần trình diễn của người mà em coi như là anh trong gia đình. Hải Bầu sẽ hát bài Niềm Tin Từ Thung Lũng Khổ Sai của TĐL ở cung La Trưởng. Khi Dũng vung tay biểu diễn khúc nhạc dạo đầu tôi hồi hộp nhìn Hải Bầu, chỉ sợ hắn lỡ nhịp. Không! Hải Bầu, rất điệu nghệ bước vào thế giới tình cảm của TĐL. Ăn nhịp. Trơn tru. Và rất ngọt.

“Mây trôi về đâu, mây ơi, cho ta nhắn đôi lời
đến phương trời nơi người tôi mến thương
Sầu vương từ ngày đánh mất quê hương
từ ngày đôi bờ đại dương ta xa cách.
Nơi đây mình tôi đơn côi theo năm tháng lưu đày
Sống những ngày lao tù ôi đắng cay……..”

Giọng thanh, rõ ràng, không run. Và hắn đã nhập hồn vào bài hát. Hắn đã chân thành truyền đến bạn tù nỗi nhớ thương ray rứt, nỗi tiếc nuối khôn nguôi của TĐL

“Nhớ chăng em ơi lời tôi thiết tha?
Biết chăng em ơi tình anh xót xa?
Xa rồi những ngày tình ta ngát hương
Yêu đương, tơ vương để lòng mãi nhớ thương nhau”

Khi Hải Bầu vào đoạn cuối của bản nhạc thì sự lo lắng của tôi hoàn toàn tan biến.

“Lòng thầm mơ một ngày đất nước yên vui
Là ngày thanh bình, cho tình ta mãi thắm xinh”.

Bài này ý tưởng mạnh hơn, lập trường rõ ràng hơn bài của Phạm Văn Hải một chút. Những từ như “năm tháng lưu đày”, “những ngày lao tù”, “thung lũng khổ sai” đã ngầm kết tội chính sách gây chia rẽ hận thù của những người cộng sản. Và phần trình diễn của Hải Bầu thì tuyệt. Không chê trách vào đâu được. Dư âm của bài hát, niềm mơ ước của TĐL sẽ còn vương mãi nếu không có tiếng đàn thôi thúc của Vũ mạnh Dũng. Thằng em vào trận với bài Mưa Trên Ngục Tù của Nguyễn Hưng Đạo. Giọng bắc kỳ chắc nịch của Dũng bắt đầu:

“Giọt mưa rơi đều trên lá.
Giọt mưa rơi đều trên đá.
Giọt mưa hay là nước mắt
xót xa mộ phần u uất
tiếc thương linh hồn hiu hắt
trong cuộc lưu đày.
Giọt mưa trên áo, trên vai.
Giọt mưa trên xác thân ai
nằm phơi trên rào thép gai,
máu loang đỏ thắm
bước đường tự do”.

Hình ảnh người tù phơi xác trên đường vượt thoát khá quen thuộc với khán thính giả của tôi. Trại tù nào cũng có. Giờ đây, nghe Dũng hát tôi nghĩ đến Nguyễn Văn Be, đến những người tù gục ngã trong vụ bạo động cướp trại ở Bến Tre, đến 6 anh hùng đội 14. Tự do đôi khi phải đổi bằng máu. Nguyễn Hưng Đạo cũng có kinh nghiệm đau thương về việc này. Có điều anh may mắn còn giữ được mạng mình. Giọng của Dũng hình như mạnh hơn khi hát điệp khúc – đã chuyển qua cung Trưởng –

“Giọt mưa, mưa trên “ cacho “,
trên ánh mắt chói ngời.
Giọt mưa, mưa trên cây khô,
trên áo rách những người
đang lưu đày,
lòng chất ngất bao oán căm,
nghe mưa gào lòng cương quyết
phá tan bao xích xiềng”.

Từ niềm tin, niềm hy vọng kiểu “sau cơn mưa trời lại sáng”, “mùa xuân rồi sẽ tới” của Phạm Văn Hải và “lòng thầm mơ một ngày đất nước yên vui” của TĐL khán thính giả đã được Nguyễn Hưng Đạo, qua tiếng hát Vũ Mạnh Dũng, thúc đẩy phải đứng lên đòi quyền làm chủ vận mạng mình. Hãy uống cạn nỗi uất hận để tinh thần quật khởi bùng lên. Lời hát của Dũng tiếp tục như cơn mưa đổ xuống trại tù:

“Giọt mưa trên cùm trên gông.
Giọt mưa trên nòng thép súng.
Giọt mưa hay là tiếng hát
cất lên từ nơi tăm tối,
tiếng ca những người bất khuất
trong bàn tay thù.
Giọt mưa trên đám hung hăng.
Giọt mưa trên lũ vô nhân.
Giọt mưa hay lần cuối cùng
cuốn theo chủ thuyết
vô thần cuồng ngông.”

Bài hát bao trùm một bầu không khí chết chóc, cùm kẹp, đọa đày, nhưng những người chịu đựng những hành động tàn bạo, bất nhân đó vẫn kiên cường tranh đấu, sẵn sàng trả giá cả tính mạng mình để đổi lấy 2 chữ TỰ DO.
Đang từ tư thế ngồi dựa vào tường thoải mái tôi thẳng lưng lên, xích ra ngoài. Vũ Mạnh Dũng hiểu ý đã bắt đầu dạo đàn. Bài Bò Đỏ tôi sắp hát nhạc chuyển đổi hơi phức tạp. Dũng đã từng chơi với tôi mấy lần ở Z30D đệm theo rất tự tin, ăn ý. Hải Cà không quen nên chỉ nhè nhẹ nương theo. Đoạn đầu cung La Trưởng, điệu Valse chậm. Đoạn giữa qua cung Thứ, tốc độ hành âm chậm hơn, điệu Boston. Đoạn cuối trở lại cung Trưởng, tốc độ hành âm thật nhanh, điệu Soul. Bài nhạc gốc gác từ Bù Gia Mập, Phước Long. Từ một bài thơ cùng tên của Nguyễn Văn Kỳ (Trung Úy HQ) một bạn tù họ Trương (tôi quên tên) đã phổ nhạc.

“Anh có thấy bò cười?
khi loài người cúi mặt
nhìn tay mình trói chặt
lửa thù rực đôi mắt.
Khi bò ca
vạn vật thành gỗ đá
đất buồn xa lạ
bò gặm cỏ
thành mặt trời nhỏ
bên phố không người qua
đời không tình nên phố vắng
bò không người say nắng bước thênh thang”.

Nguyễn Văn Kỳ chọn từ Bò Đỏ thật hay. Bò cười, bò ca là thái độ ngạo nghễ đến ngô nghê, ngu dốt của đám người miền bắc cưỡng chiếm miền nam. Có vài bạn tù mỉm cười. Cười cái ngu, cái khờ của đàn bò, nhưng trong nụ cười có pha chút chua xót; nó ngu ngơ, khờ khạo như thế mà nó thắng, mình thua. Chính vì là bò, là súc vật nên chúng không có tình người, tàn ác, bất nhân. Tôi hát tiếp. đoạn nhạc chuyển sang cung thứ, chậm và buồn.

“Anh có thấy thế gian bò dựng nên thiên đàng
bằng hố sâu ngăn cách
bằng chia rẽ hận thù
bằng trí thông minh màu đỏ ngu si
mỗi bước đi
bò dắt loài người lùi hàng thế kỷ
bò biến tình nhân ngỡ ngàng như khách
gặp nhau rồi không dám hẹn lần sau
mẹ ôm con mòn mỏi cơn đau

nhưng không dám nói sợ người ngoài nghe được”.
Tôi truyền đến các bạn tù nỗi buồn phải nhìn đàn bò giày xéo quê hương. Hòn Ngọc Viễn Đông đã bị lạc hậu. Không còn sánh vai được với Băng- Cốc, Đài Bắc, Hán Thành, Hồng – Kông chứ đừng nói gì đến Tokyo, Singapore. Đó là về lãnh vực vật chất. Còn về tinh thần, những người cộng sản, qua chính sách cải tạo tù đày, đã để lại trong lòng người dân miền nam một vết thương không biết đến bao giờ mới thôi rỉ máu. Mỗi lần nhìn thấy nó, mỗi lần chạm vào nó, tim lại nhói lên, những ý tưởng hòa giải, đoàn kết lại như bọt nước, tan biến đi. Vừa hát tôi vừa nhìn vào mắt khán giả của mình. Họ chớp mắt, gật gù tán thưởng đấy, nhưng không biết trong lòng họ có thấu được không, cái nỗi đau, nỗi lo sợ có một dòng sông phân cách trong lòng mỗi người dân Việt mà chưa có chiếc cầu nào đủ dài để nối liền hai bờ. Tiếng nhạc đã ngừng hẳn.Tôi chờ thêm vài giây rồi bất ngờ nhảy vào đoạn cuối như một cuộc đột kích vào tuyến phòng thủ của địch quân:

“Hãy hát lên bài ca bò đang cai trị
hãy hát lên bài ca bò đi qua ngõ
và sau cùng hãy hát bài ca người trở về thành phố
sau cơn mê phố sẽ đông người, không bỏ ngỏ
phố không còn đỏ
còn loài bò
sẽ trở về gặm cỏ
như xưa”.

Tôi trở lại đoạn cuối một lần nữa để cho âm vang của cuộc đột kích có thêm thời gian thấm vào tim, vào óc khán thính giả của mình. Đây đó có những nụ cười mỉm, có những khuôn mặt thư giãn, vui vẻ. Bởi đó là ước mơ chung- được trở về làng xưa, phố cũ, được nhìn đàn bò hung hãn ngày xưa trở nên hiền lành đứng gặm cỏ bên đường. Bài hát đã hết. Không khí hơi ồn ào một tí rồi trở lại yên lặng.
Có tiếng sô- lô một đoạn của bài hát kế tiếp từ cây đàn Vũ Mạnh Dũng. Hải Cà đệm accord nương theo. Vũ Trọng Khải đằng hắng, lấy giọng. Đây là bài Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về của Khuất Duy Trác. Khi tiếng nhạc dạo trở về chủ âm, Khải đã thay anh Trác kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ một cô gái đi thăm nuôi lúc đang cuốc đất bên đường:

“Tôi đã gặp em, bỡ ngỡ tình cờ
Đôi mắt ngây thơ đến từ thành phố
Ngục tù tối tăm nói với cuộc đời
Sài Gòn có vui? Sài Gòn có vui?
Em ngước nhìn tôi, cúi đầu nói nhỏ
Còn gì nữa đâu thành phố mộng mơ?
Thành phố đớn đau vẫn thường nhắn nhủ
Sài Gòn chỉ vui khi các anh về”.

Tứ thơ hay quá. Không cần tranh luận ai chính nghĩa, ai phi nghĩa; không cần những tĩnh từ, trạng từ xấu xa để mô tả thái độ, cách cư xử của những người cộng sản đối với người dân miền nam. Chỉ cần một câu nói ngắn gọn “Sài Gòn chỉ vui khi các anh về” là đủ. Những gì còn lại sẽ được hiểu ngầm. Ở đây Khuất Duy Trác đã vận dụng phép ẩn dụ một cách tài tình. Các bạn tù của tôi chắc cũng thấm ý nên gật gù cười mỉm. Khi Vũ Trọng Khải vào đoạn sau, tốc độ hành âm nhanh hơn, thì không khí sôi động hẳn lên. Khán giả, người cựa quậy mình, người đổi thế ngồi. Họ không thể thể giữ thân mình ở yên một chỗ được.

“Tôi sẽ về đòi lại quê hương đã mất.
Tôi sẽ về cùng em lau khô hàng nước mắt
Tôi sẽ mời em dạo chơi phố xá tươi vui
những con đường tình trường xưa công viên tràn nắng mới.
Tôi sẽ về qùy bên thánh giá bao dung
Tôi sẽ nguyện cầu cho tình yêu và cuộc sống
Đem tiếng khóc cười dâng đời khúc hát say mê
Cám ơn Sài Gòn, tôi sẽ trở về”.

Giọng của Khải khỏe, vang, nên hát đoạn này thật tuyệt. Bằng giọng hát truyền cảm của mình Vũ Trọng Khải hát lại đoạn này một lần nữa để long trọng gởi đến khán thính giả lời hứa của Khuất Duy Trác, không, cả lời hứa của Khải, cả lời hứa của mọi người có mặt trong nhà 3 lúc ấy, với người dân miền nam- SẼ TRỞ LẠI SÀI GÒN. Và anh vào Coda, tái xác nhận lời hứa của mọi người:
“Sài Gòn mến yêu! Người tình dấu yêu! Tôi sẽ ….trở….về….”. Không biết có ma nhập, qủy nhập gì không mà Vũ Trọng Khải hát hay quá. Khán giả mặt nghệt ra như bị hớp hồn. Nhiều người tay nắm chặt, giơ lên, như muốn bằng hành động, hỗ trợ lời hứa của Khuất Duy Trác, Vũ Trọng Khải.

Hải Cà, Vũ Mạnh Dũng đã bỏ đàn xuống nghỉ giải lao. Tôi biết đã đến lượt mình với bài thơ Từ Ngục Tù
Cộng Sản. Bài thơ này tôi viết lúc nằm trong xà lim đợt 1 với Nguyễn Văn Quỳnh, sau đó với Bửu Chí, Lê Văn Sanh, và sau nữa là Long Bô (khóa 25VBĐL) và võ sư Lê Sáng. (Họ lần lượt được thả về trại với tập thể anh em, còn tôi tiếp tục ở lại quản lý xà lim số 3). Bài thơ khá dài, khoảng 300 câu. Chơi bài thơ này là tôi đã chấp nhận đưa sự thành bại của buổi diễn vào canh bạc. Nếu khán thính giả buồn chán, ngáp dài, buổi diễn – cũng như một bản nhạc - phải chấm dứt ở nốt trầm, không được hưng phấn lắm. Tiết mục cuối thất bại sẽ để lại trong lòng khán thính giả lúc ra về một cảm giác buồn bực vì không được hưởng một niềm vui trọn vẹn. Nhưng tôi không còn chọn lựa nào khác. Theo sự ước đoán của tôi, lúc Vũ Trọng Khải kết thúc bản nhạc, chương trình mới kéo dài được khoảng 50 hoặc 55 phút – chưa đủ để tạo hiệu quả cảm xúc tối đa.( Thời gian tối ưu cho một buổi diễn kiểu này là từ 80 đến 90 phút ) Tôi chỉ có khoảng 20 giây để đưa ra quyết định. Tôi đã chọn giải pháp “ tới luôn”. Và tôi truyền đến các bạn tù những vần thơ uất hận viết từ xà lim:

“Đừng khóc lóc, chớ kêu van rên xiết
hãy cắn răng nén chặt vết thương lòng
mắt căm hờn hãy mở thật trong
không ngấn lệ nhìn kẻ thù rõ mặt
Câu Tiễn khi xưa nằm gai, nếm mật
để khỏi quên nợ nước, thù nhà
thì suốt mấy năm, bao lần vùi dập
chỉ nhắc ta nhớ kỹ nợ thù xưa”.

Tôi đã bỏ phần đầu so sánh khung cảnh, cuộc sống của người dân miền nam trước và sau 30 tháng 4, 1975, để đi thẳng vào phần sau kể cho các bạn tù nghe cuộc đời của một sĩ quan trẻ từ lúc rời khuôn viên đại học, vào quân đội, chiến đấu, rồi buông súng vào trại tập trung chịu đựng đọa đày.Bắt đầu là mấy câu chuyển mạch:

“Trong khổ đau chung có nỗi buồn riêng
trong mối thù thiêng liêng của tổ quốc
có niềm căm hận của riêng mình
ai đã từng chiến đấu, đã hy sinh
mà chẳng có vì một chút mình trong đó”.

Và rồi câu chuyện đời tôi

“Tôi lớn lên giữa mùa lửa đỏ
qua tuổi hoa niên bằng nhịp thở chiến tranh
giặc lăm le phá cuộc sống yên lành
theo lệnh gọi tôi bước vào quân ngũ
trường đại học cửa đang rộng mở
hứa trao tôi bao kiến thức xây đời
hơi ấm gia đình đang phủ kín quanh tôi
nhưng sao được, lời gọi thiêng sông núi”

Tuy phải rời đại học vì lệnh tổng động viên, tôi vào lính với bầu máu nóng tuổi thanh niên, bảo vệ tự do, bảo vệ quê hương đất nước. Ngoài một số khách tù chính trị tập trung, chính trị có án từ các nhà khác, các bạn tù nhà 3 cũng có một số là cựu sĩ quan nên có vẻ gật gù thông cảm với tôi. Và tôi lại đọc những câu thơ về bước chân phiêu lưu của người lính

“Tôi đã đi trên các vùng đất lạ
Bình Đại, Kiến Hòa, Quảng Trị, Thừa Thiên
Bình Dương, Tây Ninh, Sóc Trăng, Mỹ Xuyên
Đại Lộc, Quảng Nam, Phước Tuy, Long Khánh”

Là lính chiến tôi chấp nhận – và đã trải qua - những cay đắng, ngọt bùi mà chiếc áo “ trây- di “ mang lại

“Tôi đã cầm quân đạp xác thù tiến đánh
từng bế trên tay đồng đội mới hy sinh
bao gian lao, khổ cực của chiến binh
cả nguy hiểm tôi đã từng nếm trải”

Nhưng khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ra lệnh cho toàn quân buông súng, tôi cảm thấy chới với, hụt hẫng. Tôi nghĩ rằng trong số khán thính giả có mặt ở đây chắc không ít người cúi đầu, buồn tủi.

“Nhưng hỡi ơi! Tôi như điên, như dại
sét đánh ngang tai, choáng váng mặt mày
nước mắt rưng rưng, tâm hồn tê tái
đất nước tôi tan nát kể từ đây”.

Vì thương cha mẹ già và đàn em dại tôi đã không theo đơn vị ra biển Đông mà ở lại tìm đường về với gia đình. Nhưng dự tính của tôi đã không thực hiện được.

“Chưa được về thăm cha mẹ một ngày
chưa được nhìn cảnh phố phường tang tóc
chưa kịp ủi an đàn em ôm mặt khóc
tôi bị đưa đến trại tập trung”.
Và những tháng ngày đen tối nhất trong cuộc đời tôi bắt đầu

“Cúi đầu lê bước nhìn mũi súng ngang hông
tôi thấm thía nỗi nhục người thua trận”.

Trong  cái ngày đen tối ấy có những vị tướng, có những người lính, hào khí ngất trời, đem cái chết trả nợ non sông. Tin về những cái chết ấy đã làm tôi xốn xang trong lòng. Nửa buồn, nửa vui, pha lẫn một vài tia hy vọng..Và ai trong số các bạn tù của tôi ở đây không từng có cái cảm giác đó.

“Tôi kính phục khi biết Nguyễn Khoa Nam tự vẫn
Lê Nguyên Vỹ thà chết chẳng ra hàng
tôi nghiêng mình trước vẻ hiên ngang
những người lính ngồi bên nhau cao tiếng hát
quốc ca vang lên quyện lấy lá cờ vàng
lựu đạn nổ từng thân người tan nát”.

Họ chết đẹp quá! Chết để giúp người còn sống có đủ can đảm ngồi dậy, chùi nước mắt, có niềm tin để nhìn về phía trước. Nhưng vừa ngồi dậy đã phải đối diện với thực tế phũ phàng : những năm tháng lưu đày biệt xứ.

“Thế rồi thời gian hờ hững qua cầu
tôi hứng chịu bao đớn đau, tủi nhục
những ngọn roi thù hận quất lên đầu
những xỉa xói đâm vào tim sôi sục
tôi đã thấy cảnh ngang nhiên cướp bóc
những cặp mắt sáng lên lục soát tư trang
đồng hồ, bút máy, kính mát, bạc vàng
chúng vồ lấy giành giật nhau cất dấu”

Không chỉ chịu đựng đày đọa xác thân mà rất nhiều người phải bỏ mạng. Họ không chết ở chiến trường, nơi hòn tên mũi đạn mà chết bởi những đôi mắt hận thù, đôi tay độc ác.

“Tôi đã từng nằm trên vũng máu
ôm xác bạn bè bị bắn chết trên tay
bó củi nặng trên vai hằn vết tù đày
các anh nằm xuống, lũ qủy cười lau súng
tôi cũng đã đứng trân mình chịu đựng
những nắm tay, những báng súng căm hờn
chúng đạp lên thân tôi mê tỉnh chập chờn
máu trong miệng trào ra đầm ngực áo”

Tôi kể lại những đọa đày tôi đã từng gánh chịu. Nhưng bỗng nhiên nỗi đau của tôi thấm vào da thịt, thấm vào tim các bạn tù. Nỗi đau của riêng tôi đã trở thành nỗi đau chung. Mặt các anh đanh lại. Mắt rực lửa căm thù.Chúng ta không thể cúi đầu nhịn nhục mãi. Bởi chúng ta càng nhịn, bọn cai tù càng lấn tới.

“Không! Chiến sĩ vẫn hiên ngang đứng dậy
băng vết thương lao vào cuộc đấu tranh
vũ khí là lý tưởng xây thành
là lòng dũng cảm, chí kiên cường bất khuất”.

Ở các trại cũ chúng ta có các ban báo chí, văn nghệ, xã hội, hành động. Tất cả đều góp sức vào cuộc đấu tranh chống bọn cai tù tàn bạo, bảo vệ nhân quyền.

“Vui biết mấy! Khẩu hiệu, truyền đơn như xác pháo
Quốc kỳ của ta những ngày lễ rạng ngời
những đêm giáng sinh chiến thắng tuyệt vời
những cái tết dậy vang hào khí
những vụ phá rào tìm tự do kỳ bí
những pha tấn công cướp súng quân thù
những vụ làm nội ứng phá trại tù (1)
đã lưu lại những dấu ghi đẹp đẽ”.

Làm những việc ấy trong gông xiềng không phải dễ. Bởi bọn cai tù xài luật rừng đàn áp rất dã man. Chúng đày đọa anh em tôi bằng chế độ 2 muỗng cơm, 2 muỗng nước trong xà lim. Khi chúng tôi lên tiếng phản đối liền bị chúng đánh đập bằng cọc sắt đến ói máu

“cố lấy sức tàn trên tấm thân xơ xác
chúng tôi tuyệt thực phản đối sự dã man
bọn chúng lại biểu diễn tính hung tàn
máu lại đổ, thịt lại rơi tung tóe”.

Chiến tranh chấm dứt. Tuy không đúng với ý mình bởi chúng tôi thua trận. Là một sĩ quan trẻ, tôi đâu có quyến luyến, mơ mộng gì chức tước, quyền uy, danh vọng. Có cha mẹ già, em dại, tôi chỉ muốn quay về làm nhiệm vụ một người con, một người anh cả. Cô láng giềng vẫn còn giữ lời hứa đợi chờ; tôi cũng muốn tạo cho riêng mình một mái ấm gia đình, sinh con, đẻ cái. Mộng rất bình thường thế thôi. Nhưng những người chiến thắng đã không muốn như vậy. Họ đã thực hiện chính sách gây chia rẽ, hận thù.

“Đây da thịt tôi nhựa tràn đầy tuổi trẻ
chúng muốn tôi kiệt sức chết lần mòn
chúng muốn tôi chẳng còn có vợ con
mà vĩnh viễn rục xương trong ngục tối”

(1) vụ cướp súng phá trại ở Bến Tre:
gia đình tôi có làm gì nên tội
đang ấm êm chúng bắt phải chia xa
cha tôi bị đày lên rừng già
chết không gặp vợ con nói lời vĩnh biệt
mẹ tôi sức cùng, lực kiệt
nước mắt đầy vơi
dãi nắng dầm mưa, thân xác rã rời
kiếm cho con bát khoai, bát sắn
các em tôi, tương lai phá sản
bỏ học hành, mỗi đứa phiêu bạt một phương
nay đi dân công, gài chông, rào cản
mai làm thủy lợi, đắp đập, đào mương

Đâu phải chỉ có mình gia đình tôi tan nát. Đôi mắt, khuôn mặt các bạn tôi cũng lộ rõ những đau thương. Chúng tôi đã gặp nhau, đã có một mẫu số chung: cùng là nạn nhân của một chính sách tàn ác, bất nhân. Chúng tôi có trái tim dào dạt tình thương nên chúng tôi mới căm thù. Và mối căm thù của chúng tôi chính đáng. Tôi gào to kêu gọi:

“Hỡi những ai yêu qúy quê hương
hỡi những ai mến thương cha mẹ
hỡi những ai lo cho tương lai con trẻ
hỡi những ai muốn sống cuộc sống của con người
hãy thông cảm cho tôi
bởi tôi không phải hạng người khát máu
tôi chỉ quyết xông pha chiến đấu
quyết trả thù cho đất nước, cha mẹ, anh em
tôi thề suốt đời mình chỉ biết tiến lên
diệt cho kỳ hết loài qủy đỏ
vứt xác lên núi cho quạ với kên kên
móc mắt, rỉa thịt, còn xương dành cho chó”.

Tôi viết bài thơ này trong xà lim, lúc uất hận trào lên nghẹn cổ, nên lới lẽ vô cùng mạnh bạo. Tôi cũng hơi lo lo là có những người tâm tánh hiền lành sẽ không chia sẻ cái cảm xúc mạnh bạo này. Nhưng không, nhìn những khuôn mặt hả hê tôi biết tôi đã chạm đúng nỗi lòng của họ. Và tôi xông tới đánh một đòn trí mạng vào hang ổ của cộng sản.

“Tôi nôn nao nghĩ tới một ngày nào đó
được đạp dưới chân xác Lê Duẩn, Trường Chinh (2)
được hiên ngang tiến vào giữa Ba Đình
bằm thi thể Hồ Chí Minh bắn ra Đông Hải
cho dân tộc quên đi niềm sợ hãi
của thời nào qủy đỏ ngự trên ngai
cho Lào, Kam Pu Chia khoan khoái mỉm cười
được cùng Việt Nam từ nay xây đời mới
tôi ước ao cùng đoàn quân thế giới
vượt sông Von-Ga xông tới Matscova
điệu cổ Kôs Si Ghin, Bre Giê Nép ra tòa
quật mả Lê Nin, thiêu di ảnh Ăng Ghen, Kác Mác
cho Đông Âu ngoi dậy nhìn thân mình tan nát
cho sáng mắt Bắc Hàn, Mông Cổ, Cu- Ba
cả Afganistan, Mozambique, Angola
đều được thấy rõ tấm gương Trung Quốc

(2) Tôi lấy ý của Nguyễn Thanh Sơn, một bạn tù ở Phước Long
“Tư tưởng ta lu mờ Socrate
Ta đạp dưới chân ta Lê Duẩn với Trường Chinh
Một mai đây ta sẽ về giữa Ba Đình
Đem Hồ Chí Minh ra xét xử”

Mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Ở cái trại trừng giới khét tiếng này mà tôi dám có ý nghĩ xúc phạm - không, từ xúc phạm còn nhẹ quá - phải nói là lăng nhục, đạp đổ thánh địa - với tất cả đền đài trang nghiêm - của cộng sản Việt Nam và cả cộng sản quốc tế.
Và tôi đi vào đoạn cuối của bài thơ, những ước mơ. Đây là một trong vài đoạn của bài thơ mà tôi sợ khán thính giả mất hứng thú vì nó có cả những dự định có tính cách cá nhân của tôi

“Tôi mong lắm, mong đến ngày hội mới
ngày Việt Nam tươi trong nắng tự do
để được nghe khắp nơi vang tiếng hát, câu hò
để được thấy da thịt trẻ thơ hồng thắm lại
tôi sẽ qùy trước bàn thờ khấn vái
xin ơn trên mở lối cho cha tôi
được siêu thoát nơi miền tiên giới
được kề cận bên đức Phật đời đời
tôi sẽ đến bên mẹ tươi cười
vuốt mái tóc bạc, hôn tràn lên đôi má
và thì thầm như ngày xưa còn bé
mẹ ơi! Con mẹ đã về đây
các em tôi sẽ được gọi về ngay
dù đang ở tận chân trời xa tít
đã hết rồi những đêm dài mù mịt
kìa ánh bình minh, vui sum họp gia đình
tôi sẽ đến mang chân tình
đền đáp những người anh, người bạn
suốt mấy năm dài hoạn nạn
đã dậy dỗ tôi, đã dìu dắt tôi lên
các anh đến với tôi bằng những lời khuyên
phân tích phải trái khi tôi lầm lỗi
chia sẻ với tôi những ngày hành tội
cả một chút hiếm hoi miếng ngọt, miếng bùi”.

Nhưng không, khán thính giả vẫn mở to mắt, chú tâm lắng nghe. Dường như những tâm tình của tôi cũng là những tâm tình của họ. Đối với cha mẹ, anh em, bè bạn ai chẳng muốn có ngày được đền ơn, đáp nghĩa. Tôi quả thật đã có sự đồng cảm của họ. Tôi hứng chí dùng hết hơi trong buồng phổi của mình đọc thật lớn mấy câu cuối của bài thơ:

“Hạnh phúc của tôi giờ là những cánh rừng xanh
những buổi họp mặt vòng quanh đống lửa
tôi sẽ chỉ cho đàn em nhỏ
kìa, đường đi của tuổi trẻ Việt Nam
hỡi các em! Hãy tiến chiếm đỉnh vinh quang”.

Bài thơ kết thúc bằng một ước mơ. Ước mơ của một huynh trưởng hướng đạo (quân đội). Khi những hận thù , chết chóc đã qua đi sẽ là lúc nghĩ đến việc bảo dưỡng những mầm non nước Việt. Công việc ấy không bao giờ là quá sớm và cũng không bao giờ là quá trễ. Các bạn tù của tôi nếu có lỡ một, hai chuyến tàu thì cũng còn nhiều chuyến tàu khác. Chương trình còn một tiết mục nữa là hết. Đây là lúc Vũ Mạnh Dũng trổ tài, với sự giúp sức của Bùi Mạnh Bái và một số anh em khác. Điệu nhạc Swing dồn dập nổi lên và các bạn tôi vào điệp khúc:

“Hãy hát lên đi những lời ca bất khuất
Hãy nói lên đi những điều ta mong ước
Rồi hát lên đi những trường ca chiến đấu
Để sau cùng ta hát khúc hoan ca”.

Đây là bản Gọi Đàn, tôi viết ở Phước Long năm 1978 kêu gọi các bạn tù rời bỏ những bài thơ, bài nhạc than khóc, ủy mị, nhìn tương lai bằng con mắt chán chường, bi quan. Ba thằng ông nội rất thích nên đòi đưa vào chương trình cho bằng được. Tôi thấy các khán giả phía trước mặt mày phấn chấn, hào hứng, nhún mình theo điệu nhạc. Và Dũng đi vào phiên khúc thứ nhất nói về tinh thần bất khuất:

“Ta không than van và cũng chẳng cúi đầu
Dù bao năm tù làm thân ta mòn mỏi
Ta vẫn hiên ngang, vẫn ngạo nghễ đứng nhìn
Dù mũi súng thù đang nhắm thẳng tim ta”.

Rồi tất cả cùng hát điệp khúc:

“Hãy hát lên đi ……”

Bùi Mạnh Bái hát phiên khúc thứ hai ( mong ước ):

“Ta mong mai sau nước Việt ta phú cường
Nhân dân reo mừng được an vui hạnh phúc
Ta ước mong sao thế giới hết oán thù
Mong cả loài người nói tiếng của con tim”.

Lúc này rất nhiều khán giả vào hát chung điệp khúc với anh em. Tiếng hát mạnh và vang xa. Tôi đưa mắt nhìn Ngọc Đen tỏ ý lo ngại. Nó tỉnh bơ lắc đầu nói thầm “không sao đâu”. Và tôi để anh em tiếp tục.

“Hãy hát lên đi…….”

Vũ Mạnh Dũng vào phiên khúc thứ ba ( chiến đấu )

“Ta mau xông pha vào dinh lũy ác thù
Diệt lũ hung tàn bằng tim ta chân chính
…………………”
Và rất đông người, trong đó có Ngọc Đen, Hải Bầu, Tuấn Nhí cũng hào hứng hát điệp khúc:

“Hãy hát lên đi những lời ca bất khuất
Hãy nói lên đi những điều ta mong ước
Rồi hát lên đi những trường ca chiến đấu
Để sau cùng ta hát khúc hoan ca”.

Buổi diễn kết thúc trong không khí phấn khởi, vui vẻ. Tôi nhìn lướt qua các nghệ sĩ trình diễn rồi nhìn Ngọc Đen. Mọi người đều mỉm cười, gật đầu tỏ ý hài lòng. Tôi cũng thấy nhẹ nhõm. Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ do 3 thằng gây máu lửa giao cho. Tôi vẫn sát cánh với anh em những lúc anh em cần đến mình. Bất chợt tôi bắt gặp ánh mắt Ngô Quốc Việt, và nụ cười của hắn thật dễ thương. Tôi cười lại. và thấy lòng mình rộn ràng vui.

CHƯA ĐƯỢC YÊN THÂN

Khán thính giả khách ( từ các nhà khác được mời đến ) đã lần lượt ra về. Khán thính giả của nhà 3 cũng đã trở lại sinh hoạt bình thường. Nhàn cụt và tôi được anh em đỡ xuống và về chỗ của mình. Lúc ấy Trần Danh San, vị luật sư đã từng đọc bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền trước nhà thờ Đức Bà, đến chỗ tôi, nhìn trước nhìn sau, rồi nói một cách trịnh trọng:
“Anh Nhì! Tôi xin phép anh”
Hai tay anh xoa vào nhau, giọng Bắc hơi khách sáo nhưng rõ ràng, mạch lạc:
“được dành trọn một chương trong quyển sách mới của tôi viết về những gì các anh đã làm ngày hôm nay”.
Rồi rất tình cảm anh nhỏ nhẹ nói tiếp:
“Phải cho thế hệ sau biết để các em, các cháu có thêm nghị lực, dũng khí đi tiếp con đường chúng ta đi”.
Anh nắm tay tôi xiết chặt rồi vỗ vai tôi nhè nhẹ, mắt rưng lệ. Vì lý do an ninh tôi không được phép tiếp xúc với ai khác ngoài 3 thằng ông nội nên phản ứng của các bạn tù khác ra sao tôi không biết, nhưng nghe những lời bình phẩm của anh San về buổi trình diễn tôi thấy khoan khoái trong lòng. Và cũng phập phồng lo sợ.
Cơm trưa hôm ấy tôi được một miếng thịt heo kho bằng 2 ngón tay và một chén canh rau cải nấu xương. (Không thấy xương mà chỉ có chút váng mỡ trên mặt nước canh). Đối với người tù A 20 thế cũng là một bữa ăn thịnh soạn rồi. Tôi gắp miếng thịt lên, cắn tí một, nhâm nhi để kéo dài giây phút sung sướng được bữa ăn ngon. Ăn chưa hết miếng thịt thì đã thấy Ngọc Đen và Hải Bầu vác 2 cái bản mặt hốc hác tới.
“Tụi mày không ăn cơm à?”. Tôi hỏi.
“Chút nữa ăn. Miếng thịt còn đó chứ mất đi đâu mà lo”. Ngọc trả lời.
Rồi nó ngượng ngùng nói tiếp:
“Chắc mình phải chơi thêm một chương trình nữa quá”.
Tôi giật nẩy mình:
“Cái gì? Chơi tiếp nữa hả?”
Đánh đột kích một lần đã là chấp nhận 5 ăn, 5 thua rồi. Đàng này nó đòi chơi tiếp nữa thì cái cùm chắc chẳng còn cách cổ chân bao xa đâu.
“Anh em yêu cầu gắt quá. Tao từ chối hoài mà không được”.
Nó nói nhỏ nhẹ, vẻ biết lỗi (đã đòi hỏi quá đáng).
Hải Bầu giọng khẩn thiết, xen vào:
“Ông Nhì à! Tình hình này tôi thấy chơi hôm nay rồi ngày mai biết chắc sẽ chết cũng phải chơi”.
Tôi nhìn hắn, nghĩ trong bụng: chắc nó điên rồi.
Ngọc Đen hất đầu ra phía 2 cửa sổ nhìn qua nhà 1. Anh em đứng đông nghẹt nhìn về phía tụi tôi đang nói chuyện, trông ngóng kết quả. Nó cố thuyết phục tôi :
“Thôi chơi đại một lần nữa đi mày. Mình kỹ một chút chắc không sao đâu” Tôi nhìn Ngọc Đen, Hải Bầu, rồi nhìn ra phía cửa sổ. Anh em hăng hái quá, quyết tâm quá. Trong lòng tôi, Tề Thiên ( phần lý trí của bản tâm ) và Sa Tăng ( phần tình cảm của bản tâm ) đang cãi nhau. Tề Thiên nói:
“Ngừng ngay. Rồi lặn cho kỹ. Liều lĩnh chơi nữa, vô xà lim là cái chắc”
“Chẳng lẽ lại phụ lòng anh em, bỏ anh em giữa đường”. Sa Tăng cãi lại.
“Thà để người phụ mình chứ đừng nên phụ người”.
Tề Thiên dọa dẫm :
“Sức khỏe như vậy, vô xà lim là bỏ mạng sa trường đấy”
Sa tăng trả lời:
“Thì đành chịu chứ biết sao. Còn hơn là ở ngoài mà không dám nhìn mặt anh em” .
Và tôi ngả về phía Sa Tăng, bỏ mặc Tề Thiên đứng vung thiết bảng giận dữ. Tôi nói với Ngọc Đen và Hải Bầu:
“Tao chịu hết nổi tụi mày rồi. thôi đi mà lo chuẩn bị”.

Hải Bầu mừng như bắt được vàng. Ngọc Đen đưa ngón tay cái lên; các bạn tù bu quanh cửa sổ mặt tươi rói, tự động giải tán. Tôi và hết chén cơm, húp hết chén canh rồi ra giếng rửa mặt. (Cơm nước, chén đũa của tôi anh em đã nhờ Phước Chột lo giùm).
Đối với trận đánh sắp tới công viêc của tôi đã nhẹ nhàng hơn. Kế hoạch hành quân đã có sẵn. Chỉ cần sửa đổi tí chút thứ tự các đơn vị nhảy vào vòng chiến. Các đơn vị đã quen thuộc đường đi nước bước, đã có kinh nghiệm rút ra từ trận đánh trước. Nhưng có một điều bất lợi: yếu tố bất ngờ không còn nữa. An ninh sẽ là một vấn đề rất đáng lo ngại. Tôi sẽ nhấn mạnh điều này với Ngọc Đen. Dựa vào kết quả thực tiễn trên sân khấu qua buổi trình diễn ban sáng tôi dự định sẽ có 2 thay đổi.

1/ Thay đổi thứ tự trình diễn: Lời Nguyện Trong Tù do Khải hát ở vị trí thứ 4 sau Bùi Đạt Trung sẽ được đưa xuống vị trí thứ 6 sau Hải Bầu. Lý do : tôi đã tin tưởng vào Bùi Đạt Trung hơn. Vũ Trọng Khải được đặt sau Bùi Đạt Trung là để chữa cháy trong trường hợp tiết mục của Bùi Đạt Trung bị bể. Bài Lời Nguyện Trong Tù có nội dung tích cực hơn, cộng với giọng hát khỏe và nhuyễn của Vũ Trọng Khải sẽ kéo ngay lại sự chú ý của khán thính giả. Nay Bùi Đạt Trung có thể tự đứng vững vàng, Lời Nguyện Trong Tù xuống vị trí thứ 6 cho phù hợp với sự tiến triển từ tiêu cực đến tích cực của nội dung chương trình: ĐAU THƯƠNG – TIN TƯỞNG, HY VỌNG - UẤT HẬN - QUẬT KHỞI.

2/ Thay đổi nhạc phẩm: Bài Bò Đỏ do họ Trương phổ nhạc sẽ được thay bằng Người Lại Về Thành Phố do tôi phóng tác. Lý do: tốc độ hành âm quá nhanh của đoạn sau của bài Bò Đỏ trong đó có câu “ hãy hát lên bài ca bò đi qua ngõ “ khiến khán thính giả không đủ thời gian tiêu hóa để cảm nhận sự quật khởi của loài người vùng lên đánh đuổi đàn bò.(Ở dạng thơ thì câu đó cô đọng, rất hay, nhưng chuyển qua nhạc thì hơi kẹt. Người nghe không đủ thời gian để nghiền ngẫm, cảm thông cái ý cô đọng đó.) Hơn nữa, ở vị trí người làm nghệ thuật, nghiên cứu nghệ thuật thì thái độ đứng nhìn “ bò đi qua ngõ “ là vừa đủ. Nó dành cho người đọc, người nghe khoảng trống rộng để kéo dài mạch lý luận, suy tưởng. Nhưng ở vị trí một cán bộ tuyên truyền, xách động (như tôi lúc đó) thì mấy câu chuyển mạch của bài Bò Đỏ “chưa đủ đô”, chưa thúc đẩy đến tột độ tinh thần, ý chí quật khởi của các bạn tù.
Một lúc sau Ngọc Đen quay lại hỏi tôi :
“Chương trình có gì thay đổi không ?”
Tôi tóm tắt cho Ngọc Đen 2 điểm cần thay đổi để nó đi thông báo cho Dũng, Hải Cà và các anh em liên hệ. Trước khi đi làm nhiệm vụ nó bảo tôi:

“Mày với Nhàn Cụt tìm cách chống nạng tới địa điểm trình diễn mới- nhà 2 - Khoảng 2 giờ trưa sẽ bắt đầu” .

Còn khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa. Tôi định nằm chợp mắt một tý nhưng lại sợ ngủ quên nên chống nạng ra giếng rửa mặt mũi, lau người cho tỉnh táo. Khoảng 10 phút sau tôi chống nạng ra khỏi cổng nhà 3, quẹo trái ra tới góc đường. Từ đây, nếu đi thẳng sẽ tới hội trường, quẹo phải sẽ ra nhà bếp và cổng trại. Tôi quẹo trái đi về hướng nhà 1 rồi quẹo trái một lần nữa đi vào con đường nhỏ - một bên là tường sau nhà 3, một bên là hàng rào trước nhà 1 - dẫn tới nhà 2. Đoạn đường chỉ khoảng 100 mét mà sao với tôi, lúc này, nó dường như dài vô tận. Đi chậm thì…lâu tới mà đi nhanh thì 2 chân liệt giả của tôi sẽ bị bại lộ. Tôi không dám ngẩng mặt nhìn bất cứ ai. Cứ cúi mặt vừa từng bước, từng bước tiến tới, vừa cầu xin đừng có thằng ăng ten nào nhìn thấy bóng dáng của mình. Cuối cùng tôi cũng tới được nhà 2. Có bạn tù nào đó đỡ tôi lên lầu. Tôi nằm ngửa, duỗi thẳng 2 chân, nhìn lên trần nhà suy nghĩ miên man. Tôi nghĩ đến Vũ Văn Ánh, đến những điều đọc được về anh khi cùng viết tự kiểm với anh. Tốt nghiệp cao học về truyền thông đại chúng ở Mỹ, về nước anh đã từ chối một công việc nhẹ nhàng, lương cao với ông cha vợ để lao vào cuộc phiêu lưu của một phóng viên chiến trường, vừa ít lương, vừa nguy hiểm. Bằng tài năng của mình anh đã leo đến chức vụ chuyên môn cao nhất trong ngành, nhưng đã không đi, mà ở lại để cuối cùng làm chứng nhân cho cuộc bàn giao chính quyền miền nam cho cộng sản. Văn của anh mạch lạc nhưng đầy cảm xúc, đi vào lòng người. Anh không tỏ vẻ cao ngạo như một vài người có cùng trình độ kiến thức, mà trái lại, sống hòa đồng với mọi người. Anh chia sẻ với bạn tù những công việc nặng nhọc khi đi lao động và cả một chút hiếm hoi miếng ngon miếng ngọt khi được thăm nuôi. Giờ này trong biệt giam cái thân hình mảnh khảnh như sếu vườn của anh không biết đã teo tóp đến mức nào. Tôi biết anh không sợ chết. Anh có lần nói với tôi:
“Làm tờ Hợp Đoàn là tôi đã coi như cái đầu của mình có thể rơi bất cứ lúc nào”. Thật vậy, anh tự tay chép lại - bằng chính nét chữ của mình - tất cả bài vở gởi đến tờ báo. Khi tờ báo sẵn sàng để lưu hành, không có một chút dấu vết gì của các cộng sự viên khác. “Lỡ có gì các cậu cứ đổ hết cho tôi” - anh luôn nhắc nhở các cộng sự viên như tôi, Ngọc Đen, Hải Bầu, Hải Cà.
Nhưng tôi thấy lo cho sức khỏe của anh. Tôi mới nằm xà lim có 2 đợt, mỗi đợt trên dưới 2 tháng mà thân thể đã bệ rạc, mang đủ thứ bệnh trong người. Còn anh bị biệt giam lâu quá rồi, không biết có còn đủ sức chịu đựng nữa không ? Anh có biết giờ này mấy thằng em của anh Ngọc Đen, Hải Bầu, Vũ Mạnh Dũng đang kéo cả một đoàn người vào cuộc chơi mà giá phải trả (cho người tổ chức) cũng có khi là cái đầu trên cổ? Có tiếng lao xao. Tôi ngồi dậy nhìn ra ngoài. Các bạn tù từng tốp 2 người, 3 người đang từ từ đi vào nhà. Vũ Mạnh Dũng, Hải Cà, Nguyễn Quang Trình tay xách đàn lững thững như người đi tản bộ. Vũ Trọng Khải đang mỉm cười đáp lễ một khán giả ái mộ. Phước Chột (babysitter của tôi) cũng lăng xăng đi tới. Lúc lãnh cơm trưa nay anh cứ nài nỉ tôi cho anh một tiết mục vọng cổ- bài hát tự biên của anh về ông Hồ Chí Minh. Tôi thấy bản vọng cổ đó lời ngô nghê, vụng về quá nên từ chối khéo. Hải Bầu có Tuấn Nhí bên cạnh, hớn hở bắt tay đám chủ nhà ra nghênh tiếp. Sau vài bạn tù khác, Bùi Đạt Trung vừa đi vừa nói gì đó với Ngô Quốc Việt. Tám Chùa và đám đàn em cũng đang vui cười, ngẩng cao đầu đi tới. Phía sau, Nhàn Cụt cũng lộp cộp khua nạng đi qua cổng. Tôi nhìn qua góc lầu bên phải đã thấy Ngọc Đen, một cục đen thui, ngồi dựa vào góc tường nhìn ra ngoài. Thằng này hay thiệt. Nó lủi vô lúc nào tôi cũng không biết. Các nghệ sĩ của chúng tôi chiều nay hình như ăn mặc đẹp hơn. Họ đã trở thành nổi tiếng và đang hãnh diện đón nhận sự ngưỡng mộ của khán thính giả. Tôi đưa mắt nhìn Ngọc Đen. Nó nhìn lại tôi nhún vai mỉm cười. Không biết nó có hiểu là anh em mình đang giỡn mặt với Lý Lé (phụ trách an ninh toàn trại) không? Với sự nhạy bén đặc biệt của thằng lính Biệt Cách Dù, tôi tin là nó có thể kiểm soát được, bảo vệ được an ninh cho buổi diễn. Nhưng sao vẫn cứ thấy lo lo. Không còn ai bước vào nhà nữa. Ngọc hất đầu ra hiệu cho tôi bắt đầu chương trình. Đã đến nước này làm sao rút lui được nữa. Tôi đảo mắt một vòng từ trái qua phải rồi ngồi thẳng người cất tiếng mở màn trận đánh thứ hai.

“Hỡi những con người dũng cảm!”

Tôi vừa đọc vừa nhìn khán giả. Dĩ nhiên, rất nhiều khuôn mặt mới. Nhưng cũng không ít khuôn mặt đã xuất hiện trong buổi diễn sáng nay. Khi nhiệm vụ tưởng niệm của mình tạm xong, tôi ngồi quan sát khán giả trong lúc các bạn khác trình diễn. Lạ thật! Cũng bài hát ấy, cũng ca sĩ ấy, mà sao những khán giả xem rồi buổi sáng vẫn cứ say mê. Không những thế, có vẻ còn say mê hơn những người mới nữa. Ngô Quốc Việt mặt cứ dài đuỗn ra, miệng há hốc. Tám Chùa mắt tròn xoe, tai vểnh lên như không muốn bỏ sót một lời ca, nốt nhạc nào.Thế là điều tôi ngại nhất đã không còn đáng lo ngại nữa. Tôi yên tâm chờ đợi đến lượt mình để đưa một tiết mục mới vào chương trình: bản nhạc Người Lại Về Thành Phố. Khi bản Mưa Trên Ngục Tù chấm dứt, Dũng nghỉ một chút để hơi thở trở lại bình thường rồi bắt đầu dạo nhạc cho bài hát của tôi. Chúng tôi đã chơi bản này không biết bao nhiêu lần rồi nên cả hai đều hiểu ý nhau. Dũng đàn rất tự tin, còn tôi hát vô cùng thoải mái

“Một ngày mùa xuân từ núi rừng phương bắc
Từng đàn, từng đàn bò được lùa vào thành phố
Những đàn bò, ôi những đàn bò lông đỏ, dã man
Những cặp sừng, với những cặp sừng nhọn hoắt nghênh ngang
Loài người một thoáng ngỡ ngàng
Loài người một phút hoang mang
Rồi loài người lặng lẽ xuôi tay
nên loài người những tháng năm dài ngậm nuốt chua cay.”

Lý do xuất hiện của đàn bò đã được giải thích rõ hơn. Tôi đã thêm vào vài chi tiết gợi ý để khán thính giả tiếp cận với phép ẩn dụ dễ dàng hơn, diễn dịch một cách thoải mái hơn. Các bạn tù có vẻ thông cảm với tôi nên lắng nghe chăm chú. Bản nhạc chuyển qua nhịp 2/4 với tốc độ hành âm nhanh hơn để diễn tả sự hưởng thụ của đàn bò.

“Chưa bao giờ được ăn nên bò ăn vội vã.
Chưa bao giờ được uống nên bò uống say mê
Chưa lần nhìn phố xá nên bò cứ như mơ
Xưa làm kiếp ngựa trâu, nay bò học cai trị
Xưa gót mòn chân mỏi, nay một bước lên xe
Xưa nằm trong xó núi, nay về thành huênh hoang”.

Ý nghĩa mỗi câu nhạc đều ăn khớp với một hình ảnh thực tế ngoài đời . Rất đơn giản. Rất dễ liên tưởng. Có những đôi môi mỉm cười. Có những khuôn mặt giãn ra thư thái. Kế tiếp tôi vào điệu Rumba chậm để điễn tả sự đau khổ, chịu đựng của loài người.

“Loài người bỗng được tự do
Tự do lên núi, tự do ra rừng
Phố xá không người nên phố vắng
Đêm núi rừng ai oán tiếng khóc than
Mẹ gặp con ngại ngùng nhìn qua khe cửa
Lá rơi mẹ cũng ngỡ bước ai đi
Tình nhân ngỡ ngàng như khách lạ
Gặp nhau rồi không dám hẹn lần sau”

Tôi đang hát về chính sách kinh tế mới - đẩy người dân miền nam đi phá rừng, phá núi để cán bộ miền bắc vào cưỡng chiếm nhà cửa, cơ sở sản xuất của họ trong thành phố. Tôi đang hát về chính sách cải tạo – phá nát mái ấm gia đình, chà đạp lên tình cảm thiêng liêng của cha mẹ đối với con cái, cắt đứt nụ hoa mới nở của tình yêu đôi lứa. Vài bạn tù rơm rớm nước mắt. Chính mắt tôi cũng có một, hai giọt lệ long lanh. Đau thương sẽ sản sinh ra uất hận. Và uất hận sẽ đưa đến tinh thần quật khởi.
“Nhưng không! Bạn ơi! Có nghe chăng ? Từ rừng sâu, từ núi cao làn sóng người cuộn dâng như thác lũ. Những ngọn sóng mang bao hờn căm. Trong dòng nước chứa bao tình thương. Cả loài người xông vào trận tiến công. Và đàn bò hoảng sợ chạy tháo thân. Kìa đàn bò đang bỏ chạy tháo thân.”
Loài người nổi dậy đánh đuổi đàn bò, dành lại thành phố thân yêu của mình. Đó chẳng phải là điều mà tất cả mọi người có mặt trong nhà 2 hôm ấy mong đợi hay sao? Dành lại được thành phố thân yêu họ sẽ bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, bắt tay vào thực hiện những ước mơ. Và tôi tiếp tục hát. Hát về những ước mơ. Của mọi người. Trong đó có tôi.

“Rồi sau cơn mê người lại trở về với phố cũ với làng xưa.
Anh về bên em xây lại ngôi nhà hôm qua đổ nát.
Trẻ thơ hân hoan đôi môi rạng rỡ tiếng cười
Mẹ ra trước nhà trồng thêm mấy khóm hồng tươi
Tuổi già hôm nay bỗng lại thấy đời nở hoa.”

Khán thính giả mỉm cười thỏa mãn. Tôi có cảm giác khoan khoái của một huấn luyện viên bóng đá vừa thay đổi cầu thủ và cầu thủ ông mới đưa vào sân đã ghi bàn thắng quyết định cho đội nhà. Vũ Trọng Khải tiếp tục chiếm trọn tình cảm của khán thính giả qua nhạc phẩm Sài Gòn Chỉ Vui Khi Các Anh Về. Bài thơ Từ Ngục Tù Cộng Sản cũng được đón nhận một cách nồng nhiệt. Tới đây thì chương trình đã được tạm coi là thành công rồi. Vũ Mạnh Dũng, Nguyễn Quang Trình và Hải Cà đã bấm Cung La Trưởng chuyển qua điệu Swing cho bài Gọi Đàn. Tôi thở một hơi dài, dựa vào tường ngồi nghe các bạn hợp ca bài hát kết thúc chương trình.

“ Hãy hát lên đi những lời ca bất khuất
Hãy hát lên đi những điều ta mong ước”

Tôi thấy nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng. Các bạn đang hát nhưng tôi không còn chú tâm nghe nữa. Mới đầu tôi còn nghe mường tượng như điệp khúc của bài hát có đông người hát hơn chương trình buổi sáng. Hình như có cả giọng “ bè “ cao của Vũ Mạnh Dũng. Rồi tôi không còn biết ai hát các phiên khúc nữa. Tôi tưởng tượng mình đang nằm ngửa người trên bệ, duỗi thẳng hai tay hai chân để các bắp thịt thư giãn rồi từ từ đi vào giấc ngủ.
Tôi giật mình tỉnh dậy đúng lúc bài hát kết thúc. Ngọc Đen đã nhảy xuống dưới kín đáo chỉ dẫn các bạn tù thứ tự ra khỏi nhà. Nhàn Cụt được đỡ xuống và chống nạng lẫn vào đám đông. Tôi cũng được đỡ xuống và tháp tùng bởi 4 bạn tù nhà 2, 2 người đi trước, 2 người đi sau, trở về nhà 3 của mình. Cũng đoạn đường này nhưng sao lúc về tôi không còn sợ như lúc đi nữa. Có lẽ một phần do hào khí của buổi văn nghệ mang lại, một phần tôi đã…lỳ hơn, chai đá hơn. Chưa đến giờ cơm chiều. Ngọc Đen lại lò mò đến. Hắn dựa vào khúc cột (có gắn móc sắt làm cầu thang trèo lên tầng trên) rồi vừa cười vừa nói :
“Có mấy cái đơn đặt hàng nữa đó, mày tính sao?”
Tôi không giật nẩy mình như lần trước nữa. Đã đến nước này rồi làm sao từ chối anh em được.
“Mày muốn tới luôn thì tới luôn.” Tôi trả lời.
“Như vậy ngày mai 8 giờ ở nhà 4 nghe?” Ngọc dặn tôi.
Tôi gật đầu rồi nằm xuống, kéo mền đến ngực . Ngọc bìết ý, bỏ đi.
Những buổi diễn sau thật dễ dàng. Cứ theo trình tự mà tiến. Các nghệ sĩ đi đến rạp hát không còn e dè sợ sệt mà như những “ siêu sao “ ngẩng đầu, ưỡn ngực đòn nhận sự ái mộ của khán thính giả. Tôi cũng không phải lo ngay ngáy về vấn đề an ninh nữa. Tôi nhớ đến câu nói của Hải Bầu:
“Tình hình này nếu chơi xong ngày mai có chết cũng phải chơi.”
Tôi bỗng thấy nó có lý. Nó không điên chút nào. Các bạn đàn, hát ăn ý với nhau hơn. Đàn tự tin hơn, hát thoải mái hơn. Khán thính giả vẫn hào hứng, cuồng nhiệt như những buổi đầu. Và cứ thế chứng tôi đi hết 5 nhà, thực hiện 5 buổi diễn.

DƯ ÂM

Sau tết, các bạn ca sĩ, nhạc sĩ của tôi đi lao động mà mặt cứ tươi như hoa, gặp ai cũng cười cười nói nói. Khuôn mặt nghiêm nghị của Vũ Trọng Khải cũng giãn ra một tý đón nhận những lời chào hỏi của các bạn tù. Ngọc Đen, Hải Bầu, Tuấn Nhí thì chỗ này mời uống nước, chỗ kia mời ăn kẹo. Ôi lời thơ, tiếng hát! Nó đã đem con người đến gần nhau hơn. Phước Chột, người giúp tôi trong việc ăn uống và vệ sinh cá nhân, thỉnh thoảng lại dúi cho tôi lúc thì lọ B1, B6, B12, B tổng hợp, lúc thì tán đường, miếng kẹo đậu phộng. Bữa ăn của tôi thỉnh thoảng có tý thịt kho, cá kho. Tôi hỏi ở đâu thì anh cứ cười cười không nói. Có lần Tống Phước Hiến, cựu sĩ quan cảnh sát, trước mặt một số anh em trong đó có tôi, đã nói :
“Các anh em được về đợt tết vừa rồi có cái hạnh phúc được đoàn tụ với gia đình trong lúc xuân về, nhưng lại không có may mắn được thấy, được thở cái hào khí ngất trời của anh em mình trong mấy ngày tết vừa qua”.

Tôi biết Tông Phước Hiến từ lúc còn ở Z30D. Anh có lập trường vững vàng, có tư cách, rất tích cực, năng nổ trong các hoạt động “ dấn thân “ với anh em. Lời nói của anh đứng đắn , và dĩ nhiên, có giá trị. Cộng với câu nói của Trần Danh San, đây là những lời khen đã làm tôi khoan khoái, hai lỗ mũi phồng lên to bằng hai trái bưởi.
Nhưng cũng có người không vui. Đó là Phước chột. Mấy buổi diễn văn nghệ buổi nào cũng có mặt anh. Có lần anh định chen ngang vào chương trình nhưng tôi đã dứt khoát ngăn cản. Sau này trong lúc ăn cơm chung anh nói, giọng vùng 4 đặc sệt:
“ Chú mày ém tài anh quá. Cho anh dzô sáu câu vọng cổ để có tân, có cổ, nó dzui hơn nhiều chớ. Dzậy mà chú mày cũng không chịu. Thiệt là chú mày ém tài anh mà. “
Tôi chỉ vỗ vai anh vuốt giận. Dẫu sao tôi cũng mang ơn anh. Anh chăm sóc tôi như chăm sóc một người em. Ân tình này tôi sẽ không quên. Nhưng văn nghệ lại là một chuyện khác. Tôi nghĩ sau này chắc anh sẽ hiểu.

MÌNH NGU QUÁ

Sau tết, vào một sáng chủ nhật, Sang Lé và mấy người bạn trong các đội chính trị có án nhà 1 mời tôi qua chơi. Mới đầu tôi từ chối. Họ lại qua một lần nữa khẩn khoản mời tôi đi uống trà. Nể tình anh em tôi chống nạng lên đường. Chúng tôi lên lầu ngồi ăn bánh ngọt, uống trà nói chuyện văn nghệ, thơ ca. Các bạn trẻ hơn tôi một hai tuổi, nhưng kiến thức về thơ ca, văn học rất khá. Và đặc biệt, có kinh nghiệm viết lách. Sang đọc cho tôi nghe một bài thơ nói về tâm tình của một trí thức miền Nam trước những bất công của xã hội. Bài thơ này do anh viết. Rất hay, đầy xúc cảm. Các bạn khác người đọc Hồ Trường, kẻ đọc trích đoạn Nhớ Rừng của Thế Lữ. Buổi nói chuyện gẫu biến thành cuộc hội thoại văn học rất lý thú. Cuối cùng họ đồng loạt yêu cầu tôi đọc lại bài thơ Theo Những Bước Chân viết về 7 anh hùng đội 14. Họ nghe chăm chú và thích thú. Rồi họ mời tôi ở lại ăn cơm trưa. Họ biết tôi ăn chung với Phước Chột nên đã cho người đi thông báo để anh Phước khỏi chờ. Trong khi chờ đợi lãnh cơm Sang Lé dúi cho tôi một tờ giấy và cây viết chì đã gọt sẵn, đầu nhọn hoắt, nói:
“ Anh chép cho em bài thơ làm kỷ niệm. Em thích bài thơ đó lắm.”

Và tôi ngồi chép cho hắn bài thơ. Bữa ăn hôm ấy thật thịnh soạn. Có thịt kho tàu, thịt chà bông và cả một đòn bánh tét. No bụng, tôi ăn thêm 2 cục thèo lèo nữa rồi chống nạng ra về. Vừa về tới chỗ, chưa kịp ngồi xuống thì cán bộ trực trại Luật và trật tự Trực đã đứng bên cạnh. Tôi bị khám người và đồ đạc nhưng không có gì vi phạm. Trước khi đi Trực còn mắng tôi:
“Đã liệt mà không biết yên thân một chỗ còn cứ đi lung tung. Có ngày chết toi đời".
Một lúc sau, bên nhà 1 Sang Lé và mấy người ăn cơm trưa với tôi cũng bị khám xét. Tim tôi đập thình thịch. Nó mà thấy bài thơ thì tôi đúng là toi đời. Nhưng Sang Lé đã cho người thông báo: an toàn trên xa lộ. Thật là hú hồn, hú vía. Sau này nghĩ lại mới thấy mình hớ hênh và…. NGU quá.

TÌM MẤY LỜI GIẢI THÍCH

Sau tết, những lúc ngồi một mình, tôi cứ suy nghĩ miên man, không hiểu tại sao mấy buổi trình diễn văn nghệ lại đưọc các bạn tù hưởng ứng, cổ vũ nhiệt tình như thế. Và sau đó lại ngợi ca hết lời như thế. Chúng tôi đâu phải là những ca sĩ chuyên nghiệp, được huấn luyện trường lớp gì, mà chỉ là những nghệ sĩ tài tử. Những bài hát, bài thơ được trình diễn tuy vài bài cũng có đôi chút giá trị nghệ thuật, nhưng đâu phải là những tác phẩm bất hủ, để đời gì. Hay là có hồn thiêng sông núi hiện về mê hoặc khán thính giả để họ “ bên ngoài thì cố gắng kềm giữ thân người mình, ngậm chặt miệng mình để khỏi gây náo động, còn trong lòng thì nỗi đau thương, uất hận, hào khí quật khởi bùng lên như muốn nổ tung lồng ngực.” (lời của Sang Lé, giáo viên dạy văn, bị án 18 năm vì một bài thơ về bác Hồ) Sau này, đi sâu vào nghiên cúu nghệ thuật, thơ, ca tôi mới chiêm nghiệm và vỡ lẽ ra. Khi thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật có 4 yếu tố chủ quan tác động vào tiến trình tiếp nhận khiến khả năng thẩm định giá trị nghệ thuật của người thưởng thức đối với tác phẩm đó bị sai lạc- có khi sai lạc trầm trọng. Bốn yếu tố đó là :

1/ Trình độ thưởng thức: nếu trình độ thưởng thức thấp quá sẽ không thấy được cái hay tổng hợp, không có được cái nhìn toàn cảnh.

2/ Lập trường, lý tưởng, tôn giáo : nếu tác phẩm hợp với lập trường, lý tưởng, tôn giáo của người thưởng thức thì giá trị sẽ được nâng lên, ngược lại, giá trị sẽ bị giảm đi.

3/ Kinh nghiệm: nếu tác phẩm nói về những điều mà người thưởng thức đã từng trải qua – nói đúng nỗi đau, niềm vui của họ, sẽ có sự cảm thông; và người thưởng thức sẽ cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm điểm cao hơn.

4/ Sự khao khát : nếu người thưởng thức phải chờ đợi rất lâu mới gặp được tác phẩm hợp với trình độ, lập trường lý tưởng, kinh nghiệm của mình anh (chị) ta sẽ không ngần ngại cho điểm tác phẩm đó rất cao.
Nhìn lại đám đông khán thính giả của chúng tôi năm ấy , họ có đủ khả năng hiểu, cảm nhận những tác phẩm gởi đến cho họ. Tôi thay bài Bò Đỏ của Nguyễn Văn Kỳ bằng bài Người Lại Về Thành Phố không phải vì khán thính giả không hiểu mà vì tốc độ hành âm của đoạn sau bài Bò Đỏ nhanh quá, người nghe không bắt kịp cái ý rất cô đọng của lời trong đoạn nhạc này. Còn lại các bài hát, bài thơ khác đều đơn giản, vừa tầm cảm nhận của các bạn.

Còn về lý tưởng và lập trường- chúng tôi và các bạn tù- khán thính giả của chúng tôi năm ấy- đều là những chiến sĩ chống cộng, có thể nói là chống cộng kiên cường. Chỉ hơi khác một điều là có người đã từng mặc quân phục, có người (các bạn tù CT) không. Nhưng trong mỗi người lúc đó đều có một ước mơ cháy bỏng : tiêu diệt cộng sản, đòi lại tự do cho quê hương đất nước.
Những người có mặt trong những buổi diễn năm ấy ít nhiều đều trải qua những kinh nghiệm đau thương với cộng sản; đều bị chúng lừa dối, ngược đãi ngoài xã hội. Vào phân trại E của A 20 lại phải chịu chung một chính sách tàn bạo, độc ác, dã man của đám cai tù. Những bài hát, bài thơ năm ấy đã nói đúng nỗi lòng của họ, đã gãi đúng chỗ ngứa của họ.
Rồi sau bao lâu khao khát, đợi chờ, những buổi văn nghệ đã đến bất ngờ và đúng lúc. “Đại hạn phùng cam vũ”. Không! Phải nói “thập niên đại hạn phùng cam vũ” mới đúng. Mười năm nắng hạn gặp mưa rào. Ai cũng hả hê, thỏa mãn.
Thêm nữa, ở trong tù không bận tâm cơm áo gạo tiền, không phải lo vợ nhức đầu, con sổ mũi, không có phương tiện giải trí, khán thính giả có thể thả hết tâm hồn vào lời thơ tiếng hát để cảm nhận cái hay của nó.
Nhờ những thuận lợi đó, các ca sĩ của chúng tôi đã có thêm hứng thú để hát hay hơn, có hồn hơn lúc bình thường rất nhiều. Không những không sai sót, có người còn hát xuất thần để lại ấn tượng khó quên nơi khán thính giả.
Còn khán thính giả, được cả 4 (không, cả 5) yếu tố chủ quan tác động đã hả hê, thỏa mãn, đã lạc thần trí và kết quả là đã cho điểm chúng tôi cao hơn gấp bội so với khả năng trình diễn.

NGUYỄN QUANG TRÌNH PHỎNG VẤN

Khi Nguyễn Quang Trình từ Úc qua Houston nhóm anh em A 20 gồm Cái Trọng Ty, Nguyễn Chí Thiệp, Lê Văn Sanh và tôi có mời vợ chồng Trình, gia đình anh Lê Hoàng Ân (anh em kết nghĩa với Trình) một bữa cơm thân mật. Sau khi chia tay với các anh Ty, Thiệp và Sanh, tôi theo vợ chồng Trình và gia đình anh Ân đến nhà một người em vợ của Trình ở gần đó. Lúc chỉ còn 2 anh em Trình hỏi tôi : “ Anh Nhì, anh là người tham dự hết mình vào cuộc chơi văn nghệ tết năm đó, bây giờ nghĩ lại anh có cảm thấy tự hào không? “ Tôi không trả lời, chỉ bắt tay Trình và … cười. Nhưng trong lòng tôi lúc ấy bỗng hiện về một cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt. Lúc Ngọc Đen, Hải Bầu, Vũ Mạnh Dũng rủ tôi vào cuộc chơi tôi không còn là Phạm Đức Nhì năm 1975 đứng ưỡn ngực trước mũi súng AK của bộ đội cộng sản; cũng không phải là Phạm Đức Nhì tháng 12 năm 1979 , bất chấp sự đánh đập dã man của đám trật tự và trực trại, đã cùng Nguyễn Tú Cường, Hoàng Ngọc Thủy cương quyết tuyệt thực phản đối chính sách tàn ác, vô nhân đạo trong xà lim. Thân thể tôi đã tàn tạ. Chân mất cảm giác, cơ tròn rối loạn – không kiểm soát được hậu môn, đường tiểu, đường tinh dịch; phổi bị chấn thương, ho ra máu. Với khẩu phần 2 muỗng cơm, 2 muỗng nước mỗi bữa ăn trong xà lim thân thể con người teo tọp đi nhanh chóng. Từ ngày thứ 20 trở đi lớp da ngoài ở bụng, mông, đùi, chân, tay không có chất bổ dưỡng, cứ chết khô dần đi như da rắn lột. Nghĩ lại lúc ngồi bóc từng lớp da để thấy cơ thể mình mỗi ngày một teo đi và thần chết từng bước, từng bước đến gần đưa lưỡi hái vào cổ mình, trước mặt anh em tôi cố tỏ vẻ vững vàng, cứng cỏi, nhưng những lúc ngồi một mình tôi đã biết….sợ. Vứt đôi nạng ở ngoài để 2 tên trật tự khiêng vào xà lim, đút chân vào cùm với tôi, còn tệ hại hơn án tử hình. Vâng! Tôi đã sợ. Đã co vòi. Đã mấy lần thoái thác.
Xứng đáng ngẩng mặt tự hào phải nói đến Vũ Trọng Khải, Phạm Văn Hải, Bùi Đạt Trung, Bùi Mạnh Bái, Nhàn Cụt…. Các bạn đã vui vẻ, hiên ngang bước vào cuộc chơi dù biết nếu bị lộ, hậu quả sẽ khó lường. Xứng đáng được ngợi ca hơn nữa phải nói đến Ngọc Đen, Hải Bầu, Vũ Mạnh Dũng. Ba thằng ông nội không những đã khởi xướng cuộc chơi mà còn xông xáo liên hệ chỗ này, móc nối chỗ kia, thực sự là đầu tầu kéo cả đoàn xe, trong đó có toa tầu ì ạch của tôi. Nếu không có sự xông xáo, đốc thúc của 3 tên đầu sỏ này có lẽ tôi đã thối chí, rút lui.
Tôi như người lính dù đang chờ đến bãi nhảy. Khi cửa máy bay mở rộng, nhìn ra ngoài mặt đất sâu thăm thẳm. Tôi cảm thấy như có một làn điện chạy dọc suốt thân người lạnh buốt. Muốn đứng thẳng nhưng hai chân cứ khuỵu xuống. Huấn luyện viên nắm vai nâng tôi dậy. Khi tiếng “GO” vang lên, tôi vẫn không lê nổi hai chân để bước tới. Huấn luyện viên phải xô tôi ra khỏi máy bay. Dù mở. Tôi khám dù rồi tận hưởng cái giây phút được lơ lửng trên không và sau đó, lấy thế đáp xuống đất. Đối với những người thưởng ngoạn, cú nhảy thật tốt đẹp. Các bạn tân binh, các em bán chè, bán đá lạnh nhìn tôi cảm phục. Những gì xảy ra trước lúc tôi nhảy ra khỏi máy bay chỉ có vài người biết.
Hy vọng Nguyễn Quang Trình khi đọc bài viết này, sẽ hiểu rằng : lòng tự hào của tôi, nếu có, chỉ bé tí teo. Không thể so sánh được với Vũ Trọng Khải, Phạm Văn Hải, Bùi Đạt Trung, Bùi Mạnh Bái, Nhàn Cụt, và cả Nguyễn Quang Trình nữa(NQT nhắc tôi mới nhớ, hỏi lại Ngọc Đen, Ngô Quốc Việt cũng được xác nhận, Trình có phụ đệm với ban nhạc từ buổi diễn thứ 2 trở đi). Càng không thể so sánh được với Ngọc Đen, Vũ Mạnh Dũng, Hải Bầu. Các bạn đã nâng tôi dậy, đẩy tôi đi. Và chúng ta đã đi tới đích. Các bạn đã giúp tôi vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu. Chúng ta đã chơi. Và chơi tới bến. Những gì xảy ra tết năm đó với tôi, đến giờ vẫn còn là một kỷ niệm ngọt ngào. Trải qua sự kiện đó tôi đã trưởng thành hơn, tự tin hơn, và … can đảm hơn.

XIN CẢM ƠN

Giờ đây ngồi viết những dòng chữ này, Vũ Mạnh Dũng- người em, người bạn, người thầy của tôi – đã ra người thiên cổ. Nhàn Cụt với đôi mắt sắc như dao - cố vấn đặc biệt về ăng ten của tôi - cũng đã vĩnh viễn ra đi. Trần Kim Hải ở nam Cali, ban ngày vui vẻ chạy bàn, tối về ôm cô vợ bắc kỳ và thằng con trai đang học đại học (nghe nói học rất giỏi). Ngọc Đen cũng có một gia đình ấm cúng ở Virginia. Chơi trễ nên con mới 12 tuổi; chờ đến ngày nó đi làm để phụng dưỡng cha mẹ thì còn hơi….khuya. Nhưng khi nói chuyện, giọng vẫn sang sảng vui cười. Vũ Trọng Khải thì ở mãi bên Úc. Gia đình ổn định. Thỉnh thoảng cũng bay qua Mỹ gặp anh em cũ. Dáng bệ vệ , nói năng dứt khoát, mạnh bạo, tự tin, quan tâm nhiều đến các lãnh vực đoàn thể, tổ chức, đảng phái chính trị. Bùi Đạt Trung vẫn ham vui như ngày xưa ở trong trại. Trông hình thì da mặt có lẽ dầy hơn nhiều so với lúc “du ca”. Nhận e-mails của hắn nếu không có truyện tiếu lâm thì cũng là hình tươi mát của các em. Phạm Văn Hải cuộc sống vẫn còn long đong, vẫn lái xe 18 bánh đi khắp các vùng đất lạ của Mỹ. Hải điện thoại cho tôi thấy tôi chưa chết hắn mừng ra mặt, hỏi thăm rối rít. Nếu có dịp tôi sẽ nhờ hắn minh họa cho mấy bài thơ mới viết. Bùi Mạnh Bái thì đã chết nghèo khổ ở Hốc Môn, Việt Nam, chưa kịp nhìn cô con gái của người vợ sau- rất giỏi tiếng Anh- trưởng thành. Nguyễn Quang Trình đang sống ở Úc. Hai vợ chồng đều là võ sư đẳng này, đẳng kia đầy thắt lưng nhưng nói chuyện thì nhỏ nhẹ như con gái mới về nhà chồng. Những khán giả trung kiên như Ngô Quốc Việt, Tám Chùa thì giờ đang ở Cali, ăn nên làm ra, cuộc sống sung túc. Tuấn Nhí, Sang Lé, Tuấn Bình Định (chung thân) thì đang phiêu bạt phương trời nào ở Việt Nam, không ai biết. Và…hàng trăm anh em khác, tôi không nhớ hết tên, đã đến nghe, cổ vũ, ủng hộ cho 5 buổi văn nghệ tới bến, giờ cũng mỗi người một phương.
Xin cảm ơn các nghệ sĩ trình diễn. Các bạn đã cho phép tôi, tên bồi bàn cho những bữa tiệc thịnh soạn năm ấy, được quyết định thứ tự các món ăn dọn ra cho thực khách. Khi muốn tăng độ cảm nhận của khán thính giả, theo nhận định chủ quan của mình, tôi thay đổi thứ tự, các bạn cũng vui vẻ làm theo. Đặc biệt là Trần Kim Hải, năm ấy có nhiều món ngon muốn cống hiến cho khách thưởng ngoạn nhưng có món trùng với Vũ Trọng Khải. Tôi, với cảm xúc chủ quan của riêng mình, bỏ món của Trần Kim Hải để Vũ Trọng Khải được trình làng cả 2 món. Trần Kim Hải hơi buồn, nhưng cũng không trách móc gì tôi. Xin cảm ơn sự thông cảm của các bạn.
Xin cảm ơn tất cả. Xin cảm ơn Vũ Mạnh Dũng, Ngọc Đen, Hải Bầu- linh hồn của cuộc chơi- đã nâng đỡ, vỗ về tôi, khích tướng tôi, và đẩy tôi vào cuộc. Nếu không có các bạn sẽ không có những tiếng hát làm bừng sáng A 20 tết năm ấy. Nếu không có các bạn giờ này tôi đang nằm gặm nhấm nỗi ân hận vì đã bỏ lỡ một dịp may làm sáng thêm màu áo của binh chủng nhảy dù. Xin cảm ơn Phạm Văn Hải, Vũ Trọng Khải, Bùi Đạt Trung, Bùi Mạnh Bái, Nhàn Cụt. Nếu không có các bạn bước vào trận đánh ngạo nghễ, hiên ngang như thế tôi làm sao có đủ hứng thú, can đảm để nhận lời Ngọc Đen, Vũ Mạnh Dũng, Hải Bầu chơi thêm buổi thứ 2. Rồi buổi thứ 3, thứ 4, thứ 5. Đặc biệt là Vũ Trọng Khải. Từ một người “mũ ni che tai, không màng thế sự" đã hùng dũng bước ra làm nức lòng lớp trẻ. Xin cảm ơn Vũ Văn Ánh, người sáng lập tờ Hợp Đoàn, Trần Danh San, Nguyễn Chí Thiệp, những người nếu không phải đồng sáng lập cũng là những cộng sự viên đầu tiên của tờ báo. Nhờ mạng lưới phát hành của Hợp Đoàn Ngọc Đen mới có đủ nhân lực để thông báo, sắp xếp, tập hợp và giải tán khán thính giả, lập hệ thống báo động, canh giữ ăng ten và nói chung, bảo vệ an ninh cho 5 buổi diễn.
Và cũng xin cảm ơn đám đông khán giả đã cuồng nhiệt cổ vũ . Vì các bạn, anh em chúng tôi đã liều mình bước vào cuộc chơi, và nhờ các bạn , anh em chúng tôi đã có hứng để chơi tới bến.
Mồng 3 tết, trước giờ điểm danh chiều, Tuấn Bình Định nói với tôi qua lớp hàng rào kẽm gai (trước mặt khá đông anh em tù có án): “Thật quá đã anh Nhì. Mấy anh chơi xuất thần quá.”
Tôi trả lời: “Phải nói là nhờ các bạn biết nghe, biết thông cảm, và nhiệt tình cổ vũ. Xin cảm ơn các bạn”.

UNESCO PHỎNG VẤN

Tháng 9 năm 2008 cơn bão Ike tàn phá khu vực Đông Nam Texas. Thành phố San Leon tôi ở 60% nhà bị nước cuốn trôi. Số còn lại không ít thì nhiều, bị hư hại. Khung cảnh thật thê lương.(Nhà tôi bị lụt tới đầu gối ). Một phái đoàn của UNESCO đến thực hiện một cuốn phim tài liệu về “Thái Độ Và Suy Nghĩ Của Con Người Sau Những Tai Họa Thảm Khốc”. Tôi với tư cách đại diện cho 75 gia đình người Việt ở đây (trưởng làng) được mời phỏng vấn. Một anh chàng người Pháp (dân Paris) phỏng vấn tôi trong khoảng 35 phút (bằng tiếng Anh). Sau phần tự giới thiệu của tôi, anh hỏi tôi khoảng 10 câu hỏi trong đó có câu tôi nhớ mãi

“Anh sợ cái gì nhất?"
Tôi trả lời ngay, không cần suy nghĩ:
“Tôi không còn biết sợ nữa" (I am fearless)
Anh tròn xoe mắt ngạc nhiên:
“Tại sao?"
Tôi kể cho anh ta nghe chuyện anh em mình ở A 20; về chính sách cùm 2 chân và khẩu phần 2 muỗng cơm, 2 muỗng nước mỗi bữa ăn.Tôi kể cho anh ta nghe về sự kiện 40 ngày mới đi cầu và phải nhờ người nằm cạnh banh đít ra để moi cục phân, đã thành cục đá, ra khỏi hậu môn. Cục phân rơi xuống nền xi măng nghe đánh “ coong “ như tiếng kim loại. Máu từ hậu môn bị rách tuôn ra, rơi xuống bệ nằm lênh láng. Tôi kể cho anh ta nghe mỗi ngày tôi ngồi bóc lớp da chết trên thân thể mình để thấy mông, bụng, tay, chân mình tọp dần đi và thần chết từng bước đưa lưỡi hái đến cạnh cổ mình. Vì thời lượng có hạn, anh dừng tôi lại để qua câu hỏi khác. Khi cuộc phỏng vấn chấm dứt, ngồi uống trà tán gẫu với nhau, anh lại hỏi tôi về A 20. Tôi kể cho anh ta nghe khi tên Tri, cán bộ an ninh, dẫn tôi đi tra vấn tôi đã lao cả người xuống vũng nước bên đường uống lấy, uống để, không cần biết đó là nước dơ hay nước sạch? Có bao nhiêu loại vi trùng? Lúc đứng dậy, số nước uống đã xuống dạ dày và bộ ruột trống rỗng của tôi, chui qua hậu môn (mà tôi đã mất quyền kiểm soát), chảy xuống 2 bên đùi rồi đọng lại ở 2 bàn chân. Ruồi xanh đánh hơi thấy mùi hôi thối bu quanh. Mỗi bước tôi đi đám ruồi xanh lại bay túa lên, bám vào đầu, vào mặt tôi và cả đầu và mặt tên cán bộ. Tôi cũng kể cho anh ta nghe về những trò chơi “ giỡn mặt với tử thần “ của anh em mình – báo Hợp Đoàn, văn nghệ tới bến – mà nếu lộ ra thì không lãnh đạn A.K vào ngực cũng chết vì suy kiệt trong xà lim. Đã từng sống những chuỗi ngày như thế thì còn có gì đáng sợ nữa. Mất mát vật chất do cơn bão Ike (nhà tôi còn đứng vững, chỉ bị lụt) chỉ bằng cái móng tay, có đáng gì. Anh bắt tay tôi thật chặt và nói:

“Bạn có những câu trả lời thật lạ so với người khác; và tôi rất thích. Chúc bạn vượt qua khó khăn trước mắt để tạo dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn”.

ĐOẠN KẾT

Mang cái tinh thần “ không sợ gì cả “ từ A 20 đến nước Mỹ tôi đã vượt qua nhiều khó khăn, nghịch cảnh. Bị đụng xe 4 lần, lần nào cũng tưởng chết. Có lần trực thăng đã đáp xuống đường mà nhân viên cứu hỏa còn chưa cưa được xe để kéo tôi ra. Một người phải chui vào , lấy tay đè lên cổ tôi để máu khỏi tuôn chảy. Lần ấy tôi bị gẫy chân phải, gẫy 6 xương sườn, và đứt nửa cái cổ. Tôi đã bình phục nhanh chóng tuy phải bỏ nghề kéo cua vì không đủ sức khỏe. Nhờ thế tôi vào đại học rồi sau đó tiếp tục đi làm. Gia đình tôi hiện giờ đang sống giấc mơ của người Mỹ (American dream). Không thật giàu, nhưng cũng có nhà cửa, có xe cộ; có của ăn lại thêm tí của để; con cái học hành đàng hoàng.
Hơn thế nữa, vợ tôi còn tuyên bố một câu xanh rờn :
“Nếu muốn, anh cứ ở nhà làm thơ; em sẽ nuôi anh “cơm no, bò cỡi" cho đến lúc hết hơi”. (nhưng chỉ được cỡi bò nhà thôi đấy). Tôi vẫn lắc đầu. Bởi vì, các bạn ơi, nếu chấp nhận cái offer này, không sớm thì muộn, từ chỗ “không sợ gì cả” mình sẽ phải sợ một thứ. Đó là sợ vợ.

Phạm Đức Nhì

Viết xong từ San Leon, Texas tháng Chạp, năm Canh Dần (tháng 1 năm 2011)