Tin Tức

THÔNG BÁO HỘI NGỘ A.20 Kỳ 2.


Trân trọng Thông Báo cùng Toàn Thể A.20_Trại Trừng Giới Xuân Phước:


Sau Ngày Hội Ngộ lần Thứ Nhất được Tổ Chức tại Nam Cali, Toàn Thể A.20 cũng như Ban Tổ Chức đã bày tỏ long mong muốn có Ngày Hội Ngộ A.20 kế tiếp. Đại Hội đã Tín Nhiệm và Ủy Thác cho Miền Bắc Cali sẽ Tổ Chức Ngày Hội Ngộ lần Thứ Hai.
Để chuẩn bị cho việc Tổ Chức Ngày Hội Ngộ lần Thứ Hai này, toàn thể A.20 Miền Bắc Cali, sau nhiều buổi họp liên tiếp, đã đạt được những kết quả cuối cùng như sau:


*1. Đã thành lập một BAN TỔ CHỨC, gồm:

-Trưởng ban Tổ Chức : A.20 VŨ QUANG ĐĂNG
-Phó Trưởng Ban : A.20 TRẦN MẠNH TÔN
-Phụ Trách Thông Tin, Báo Chí : A.20 NGUYỄN NGỌC TIÊN
   A.20 BÙI ĐẠT TRUNG
-Phụ Trách Văn Nghệ : A.20 NGÔ QUỐC VIỆT
 A.20 ĐOÀN NGỌC THỤY
   (Cùng sự hợp tác của một số anh ở nơi khác....)
-Phụ Trách về Nghi Lễ : A.20 PHẠM VĂN TƯỜNG
   A.20 LÊ PHI Ô
-Phụ Trách Tiếp Tân & Đưa Đón: A.20 TRƯƠNG VĂN TÁM
-A.20 PHÙNG VĂN TRIỂN
-A.20 NGUYỄN QUANG KHÔI
-A.20 TÔN THẤT LƯU
   (Ngoài ra A.20 TRẦN MẠNH TÔN và
   PHẠM KIM MINH sẽ phụ giúp thêm trong việc đưa đón)
-Phụ Trách về An Ninh, Trật Tự : A.20 VŨ THU BIÊM
  A.20 ĐỖ VĂN THÁI
-Phụ Trách Tài Chánh và Thủ Quỹ: A.20 PHẠM KIM MINH


*2. Ngày Giờ và Địa Điểm Ngày Hội Ngộ A.20 Kỳ 2:
Ngày CHỦ NHẬT 01 Tháng 07 Năm 2012
Từ 5 Giờ Chiều đến 11 Giờ Tối


Tại Nhà Hàng PHÚ LÂM Chinese Restaurant
3082 Story Rd., San Jose , CA 95127
Điện Thoại: 408-251-9590


*3.Thực hiện DVD Hội Ngộ 2 :


Sau Đại Hội, Ban Tổ Chức sẽ Cố Gắng thực hiện Một Bộ DVD ghi lại tất cả những Hình Ảnh và Diễn Tiến của Ngày Hội Ngộ này, Các A.20 về Tham Dự, nếu có mang theo Máy Ảnh hoặc Máy Quay Phim, trước khi ra về, xin cho Ban Tổ Chức được mượn "Memory Card" trong Máy, chúng tôi sẽ Copy liền vào Laptop tại chỗ để khi thực hiện DVD, Nội Dung sẽ được Phong Phú với nhiều Hình Ảnh và Đầy Đủ các Góc Cạnh.


*4. Đặc San HỢP ĐOÀN :


Ngoài ra, sau khi các phiên họp để bàn bạc, cân nhắc, chúng tôi đã đồng ý, trong dịp Hội Ngộ Kỳ 2 này, anh em A.20 Bắc Cali với sự đóng góp bài vở của anh em từ khắp nơi gửi về, bằng mọi cách chúng tôi quyết tâm sẽ thực hiện "ĐẶC SAN HỢP ĐOÀN A.20", in với khổ giấy 8.5 x11, dầy khoảng trên dưới 150 trang. (Chi tiết về Đặc San HỢP ĐOÀN này sẽ được thông báo sau).


*5. Trong Tinh Thần Truyền Thống Đoàn Kết và Bất Khuất của Trại Trừng Giới A.20. Ban Tổ chức thiết tha mong muốn được đón nhận sự Tham Gia Hưởng Ứng Nồng Nhiệt, Tích Cực Đóng Góp, Ủng Hộ và Giúp Đỡ để cuộc Hội Ngộ A.20 Kỳ 2 được thành công tốt đẹp.

Chi Phí Đóng Góp cho Mỗi Người Tham Dự là 35 Mỹ Kim
(bao gồm Ẩm Thực, Nước Ngọt và Bia).
Chi Phiếu xin gửi thẳng về cho :


PHAM KIM MINH
1142 HOPKINS Dr
SAN JOSE , CA 95127
Điện thoại liên lạc : 408-341-5105
Email : "minhkpham@gmail.com"


Trên Chi Phiếu xin ghi rõ: Đóng Góp cho Chi Phí Tham Dự Họp Mặt, Yểm trợ Ban Tổ chức hay Hỗ Trợ ĐẶC SAN HỢP ĐOÀN A.20
Xin Chân Thành Cám Ơn và Thân Chúc Toàn Thể Quý A.20 và Gia Đình Được Bình An, Nhiều Sức Khoẻ để Chúng Ta sẽ còn cơ hội Tiếp Tục Gặp Nhau trong những Kỳ HỘI NGỘ kế tiếp.


Trân Trọng kính chào,
A.20 VŨ QUANG ĐĂNG
Trưởng Ban Tổ Chức







         



    ----------------------------------------------------------

Anh Chị Em chúng cháu rất mong được sự tiếp tay của quí Cô Chú cũng như quí Anh Chị để đưa thông tin đến thân nhân những người đã mất


Bản Tin Tìm Mộ số 2

Sau khi phát hành bản tin số 1, Văn Phòng Tìm Mộ nhận được rất nhiều E mail, Phone từ khắp nơi gọi về, Văn Phòng sẽ có tường trình và trả lời đầy đủ mọi yêu cầu của quí cô, chú trong thông cáo số 3. Sau đây là phần tóm lược các tin tức Tìm Mộ và thân nhân mất tích tiếp theo:

10) Thiếu Úy Vũ Ngọc Báu CDT/TG Tiểu Đoàn 6KB đóng ở Long Xuyên. Ở tù tại Trảng Lớn, Phú Quốc, Long Giao, Hốc Môn, Sông Bé. Năm 1978 trốn trại, từ đó mất tích luôn. Khi ở Long Giao ở chung với ca sĩ Duy Trác. Khi trốn trại, đi chung với anh Bang nhà ở gần xinê Văn Hoa, đường Trần Quang Khải (Xin liên lạc với em ruột: thehophao@yahoo.com)

11) Tìm anh ruột: Hoàng văn Thái, Sư Đoàn 22 Bộ Binh, Trung Đoàn 47, Tiểu Đoàn 1 (?) cấp bậc Trung Sĩ hay Hạ sĩ nhất. Mất tích ở Qui Nhơn khoảng tháng 9/1974 (ĐC em ruột:sonkhaithue@gmail.com- Cell : (617) 833-3362 (617) 833-3362 )

12) Tìm anh: Trần Đức Tánh, Thiếu Úy Tiểu Đoàn 11 Dù, mất tích khoảng tháng 9/1974 ở mặt trận Thượng Đức (Xin liên lạc địa chỉ : hanhuongsya@yahoo.com)

13) Tìm Đại Úy Nguyễn văn Xuân sinh năm 1937, học Lyceé Yersin, khóa 15 Thủ Đức, phục vụ Tiểu đoàn 47, Sư Đoàn 18. Huấn luyện viên trường Hạ sĩ quan Đồng Đế Nha trang. 1975 trình diện Vũng Tàu rồi mất tích. (ĐC liên lạc: Ông Minh ĐT: (714) 531-7585 (714) 531-7585 )"e mail:gdmcus@yahoo.com"

14) Tìm Thiếu tá Nguyễn Văn Quan Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 18 Truyền Tin, Ủy Ban Quân Sự Hoà Hợp Hai Bên tại Pleiku. Thẻ bài 49/118757, KBC 3415, OK3 mất tích tháng 4/1974 (ĐC liên lạc: naonguyen2000@yahou.com.au)

15) Thiếu Úy Quân Y Hà văn Để Trung Đoàn 42 Sư Đoàn 22 Bộ Binh, mất tích tại Qui Nhơn. Nghe nói cả 4 Bác sĩ đi xuồng ra tàu lớn bị pháo kích. ( Liên lạc:chuongvha@gmail.com)

16) Tìm ba tôi tên Nguyễn Phạm Tiến, sinh năm 1944, Sĩ quan Thủ Đức, Trung Úy Phân Chi Khu Trưởng Khu Long thành, mất tích 1975, có hai người bạn của ba tôi còn sống nhưng không thể tìm được hài cốt ba tôi (Liên lạc: natuanqlda@gmail.com)

17) Tìm em trai Nguyễn Ngọc Hòa sinh 1952, Trung Sĩ I Truyền Tin, làm việc tại Cầu Đất Đà Lạt, thường hay chơi đàn guitar tại Hội Quán Anh Đào ĐàLạt. 1975 trên đường từ Đa lạt về Sài Gòn thì mất tích. Có bạn báo tin Hòa bị bắn chết tại Hàm Tân trong ngày di tản cuối tháng 4/75 (Liên lạc: dieuthien48@yahoo.com)

18) Tôi là SQ/QLVNCH , thời gian bi tu ở Trại TÂN LẬP / K1 tỉnh VĨNH PHÚ từ năm
1977 - 1982 , tôi có biết nơi chôn khoảng 10 ngôi mộ tù ở Trại TÂN LẬP , trong đó có 3 người mà
tôi còn nhớ tên : Anh ĐỖ - PHƯỚC-THỌ ( SQ Cảnh Sát quê quán ở BÀ RỊA ) , Anh NGHĨA
( Trưởng Cuộc Cảnh Sát Phi Cảng TÂN-SƠN-NHỨT ) và Anh EM ( SQ/QLVNCH) .
Việc chôn Tù Chính Trị hoàn toàn do Tù Hình Sự / Bắc Việt phụ trách , mộ phần không có
bia hoặc cọc gổ ...để làm dấu .
Nếu ai có người thân cải tạo ở Trại K1 -Tân Lập - Vĩnh Phú bị chết trong thời gian
1977-1982 , muốn có thêm chi tiết xin liên lạc với tôi ở địa chỉ email trên hoặc số phone:
gọi sang Pháp Quốc +01.40 34 50 17 ( nói chuyện với Mr.DIỆP )

19) Có tin tức về mộ của*Nguyễn văn Tươi, Thủy Quân Lục Chiến số quân 75/109 761 loại máu A, an táng tại nghĩa trang đồi cát làng thôn 2, xã An Dương, Hương Trà, Thừa Thiên

*20) Có tin tức về mộ củaTrần Văn HoàngGia đình tôi hiện sống tại Hà Nội, cách đây mấy năm gia đình đào móng xây nhà, có đào được 1 bộ hài cốt còn lại ít xương kèm theo 1 miếng INOX khắc tên :
Trần Văn Hoàng - Sài Gòn - 1948 - 64608 sau đó được cải táng tại nghĩa trang Thành Phố (Hà Nội)

*21) Có tin tức về mộ củaThái Văn Thiệt tử sĩ Quân Đội VNCH số quân 69/12165,loại máu O. Thẻ bài này nằm cạnh hài cốt anh T.V.T. trong một khu rừng (trước đây) thuộc huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa, Vũng Tàu. (Muốn biết thêm chi tiết 19-20-21-trường hợp này, xin liên lạc với Văn Phòng Tìm Mộ)

22) Đại Úy Biệt Động Quân Đoàn văn Xường có thời gian bị giam tại trại CT6 Thanh Chương, Nghệ Tĩnh. Vượt ngục, bị biệt giam, oan thác vào khoảng 1980 (xin liên lạc chiến hữu Đào Hiếu Thảo (703) 550-0847 (703) 550-0847 hoặc amsfv@aol.com).

Văn Phòng Tìm Mộ sẽ cập nhật bản tin kế tiếp ngay sau khi nhận thêm được những tin tức mới.

Văn Phòng Tìm Mộ

Anh Chị Em chúng cháu rất mong được sự tiếp tay của quí Cô Chú cũng như quí Anh Chị để đưa thông tin đến thân nhân những người đã mất.

Sau ba tuần hoạt động, Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ đã nhận được nhiều tin tức khắp nơi gởi về yêu cầu Văn Phòng thông báo một số chi tiết liên quan đến những ngôi mộ vô chủ do dân chúng hoặc chính các đương sự chôn cất . Sau đây là một số vụ đã được công bố trên Mạng:

1. Ông Trần Kháng ở Na Uy cho biết: Ông Võ Văn Hạp ở xóm Cồn Dầu, thôn 3, xã Hải Dương, Huyện Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên đã chôn 6 tử sĩ VNCH, sau đó 2 chiến sĩ đã báo mộng cho thân nhân từ Quảng Trị vào di dời, hiện còn mộ 4 chiến sĩ trong đó có 2 người có tên trên bọc áo là: Nguyễn Lam và Phan Hiệp

2. Ông Huỳnh Tấn Hải cho biết đã chôn một Đại Úy Phi Công tên Vũ Chí Công sinh năm 1949 quê Việt Bắc nơi ở Sài Gòn-Gia Định tử nạn trong buồng lái máy bay . Máy bay bị rơi trong vùng trên đường từ Gia Rai về Phan Rang.

3. ( da co nguoi nhan) Có tin tức về mộ của Trung Úy Biệt Động Quân Nguyễn Văn Qúy

4. Có đầy đủ tin tức về mộ của 47 tử sĩ QLVNCH chôn tại cột cờ Quân Y Viện Qui Nhơn do bác sĩ Quân Y Nguyễn Công Trứ và Dương Văn An là một trong những người lính còn lại trong Quân Y Viện chôn cất.

5. Tin về Thiếu Tá Đạt công tác tại Ban Tâm Lý Chiến Tỉnh Bình Định đi tác chiến tại quận An Túc,trên đường trở về đơn vị bị phục kích, anh đã bị thương và tự sát, được dân địa phương chôn lấp vội vàng bên lề đường.

6. Có tin về 2 ngôi mộ vô danh trong địa bàn tỉnh Quảng Tín. Ai có thân nhân bị bắt mất tích vào khoảng tháng 2-1946 tại các xã Kỳ Long, Kỳ Thịnh thuộc 2 quận Tam Kỳ và Tiên Phước, Quảng Tín xin liên lạc với chúng tôi để biết thêm chi tiết.

7. Con là Nguyễn Ngọc Cương tìm Cha mất tích. Cha anh Cương đã phục vụ tại quận An Túc, Qui Nhơn bị bắt đi cùng 7 người khác. Trong số 8 người này có 2 người tên là: -Nguyễn văn Thắng chức vụ Xã trưởng xã An Sơn, quận An Túc, Bình Định. Người thứ hai là Văn Sa, Xã Đoàn Trưởng xã An Sơn quận An Túc, Bình Định

8) Tìm Mẹ tên:
Nguyễn thị Thanh sinh năm Bính Dần 1926 tại Hà Nội. Rời Việt Nam ngày 29-6 Âm lịch nhằm ngày 11-8-1988 đi qua ngã Campuchia. Địa chủ cuối cùng là 74 A Trần Hữu Trang Phường 10 quận Phú Nhuận. Tên chồng là Đinh văn Ngo tuổi Bính Dần sinh năm1926 mất ngày 26-11( Giáp Tý) quê quán Nam Định . Em của mẹ tên là Nguyễn thị Thanh Tâm. Em trai Nguyễn Tiễn Khanh. Con trai tên: Đinh văn Sửu sinh năm1961. Con gái : Đinh thị Nhi sinh 1959.

9) Thu Hương tìm anh tên là Lê văn Tai thuộc tiểu đội 1, Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân (thuộc Liên Đoàn 5 cũ) số quân 74/70/428 đơn vị đóng tại Tây Ninh. Lúc rút quân bị phục kích, một người bạn bị thương cụt chân còn thấy anh Tai tay vẫn cầm máy truyền tin đi theo Chỉ Huy Trưởng.

Ngoài ra còn một số tin vừa nhận được, chúng tôi sẽ loan báo trong bản tin kế tiếp
Cầu mong anh linh các chiến sĩ phù hộ chúng ta.

Xin quí vị liên lạc với VĂN PHÒNG

625 wool Creek Dr ,Suite # E
San Jose . CA 95112
Tel . 559 273 1782
E- mail: lienlactimmo@att.net

Chúng cháu nguyện làm một trung tâm thông tin kết nối, thâu thập tất cả mọi tin tức liên hệ đến việc tìm mộ,
Kính mong quý cơ quan Truyền Thông, Báo Chí, diễn đàn Internet tiếp tay phổ biến thông báo này đến với quí đồng hương.
Nguyện xin ơn trên hộ trì cho công cuộc của chúng ta.

Kính Thông báo

Jimmy vũ


-------------------------------------------------------------------------------

Trích yếu về việc:


Điều Lệ, Đường Hướng sinh hoạt của Nhóm “Uống nước Nhớ Nguồn”

Thưa các Cô Chú và các bạn,

Từ nhiều ngày qua, chúng cháu nhận được rất nhiều các câu hỏi liên quan đến điều lệ tham gia vào công cuộc Tìm Mộ, và nhiều câu hỏi về nội qui sinh hoạt của nhóm “Uông Nước Nhớ Nguồn”, nay xin trả lời chung để quí vị hiểu rõ hơn về các điểm nêu trên:
Đúng như đại diện của Nhóm, anh Jimmy Vu trong lần tiếp xúc với các ký giả, giới truyền thông tại Nam Cali ngày 2-1-11 , đã khẳng định như sau:

1. Nhóm Uống Nước Nhớ Nguồn cũng như Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ không chủ trương quyên góp, gây quỹ hoặc nhận bất cứ khoản tài chánh nào của bất cứ ai và yêu cầu đại diện các nơi triệt để áp dụng nguyên tắc này.

2. Nhóm Uống Nước Nhớ Nguồn không có một nội qui điều lệ nào cả và bất kỳ ai muốn tham gia, xin cứ tự nguyện đến với nhóm bằng cái tâm phục vụ vô vị lợi của mình. Chúng ta bỏ công , của cá nhân và thời gian cùng nhau hoạt động giúp các gia đình tử sĩ Tìm Mộ tức là làm nghĩa vụ của kẻ biết ơn những tiền nhân đã hy sinh cho Đất Nước, Dân chủ và Tự Do.
Mọi công tác cụ thể về việc bốc mộ, cải táng, xây lăng, dựng bia, cầu siêu, cầu hồn xin liên lạc trực tiếp với gia đình các tử sĩ hoặc người đứng ra nhận lãnh công tác đó .

Cầu mong anh linh các chiến sĩ phù hộ chúng ta.

Đại diện Nhóm.và Văn Phòng Liên lạc

Jimmy Vu


THÔNG BÁO VỀ VIỆC TÌM MỘ VÀ CẢI TÁNG CÁC CHIẾN SĨ VÔ DANH VNCH

Kính thưa quí vị và chào các bạn,

Chúng cháu là một nhóm nam nữ thanh niên, sinh viên, học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ và hải ngoại, cùng họp lại với nhau trong tinh thần “Uống Nước Nhớ Nguồn”, tri ân các anh hùng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa vô danh đã hy sinh trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến mà mãi đến nay hơn 35 năm sau vẫn chưa có nấm mồ yên nghỉ.
Trước việc dân làng An Dương ở Thừa Thiên - Huế và cô Tô Thuận đã cải táng, xây lăng cho 135 tử sĩ VNCH hy sinh tại cuộc chiến tháng 3/1975 dọc theo bờ biển Thuận An; và chương trình sẽ tổ chức một Lễ Trai Đàn Chẩn Tế ở làng An Dương để tưởng niệm cầu siêu tịnh độ, cầu hồn cho những hương linh anh hùng tử sĩ vị quốc vong thân; trong tinh thần “Uống Nước Nhớ Nguồn”, tri ân các anh hùng tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa vô danh đã hy sinh trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, chúng cháu đã đưa lên các hệ thống Truyền Thông, Báo Chí, Internet hải ngoại các tin tức nói trên và đã được rất nhiều đồng hương xúc động bày tỏ lòng biết ơn đến bà con dân làng An Dương cùng cô Tô Thuận.
Theo nhiều đề nghị của bà con hải ngoại thuộc mọi thành phần tôn giáo, nhiều người từ khắp nơi trên Thế Giới và từ Việt Nam đã gởi Emails, gọi điện thoại hỏi han, cung cấp tin tức những ngôi mộ mà tình cờ họ biết được; hoặc nhiều gia đình nhờ giúp tìm kiếm chồng, con là các anh hùng tử sĩ VNCH đã mất tích từ ngày tàn chiến cuộc cho đến nay..., chúng cháu quyết định tổ chức một VĂN PHÒNG LIÊN LẠC để cùng hỗ trợ và đáp ứng các yêu cầu nêu trên của bà con khắp nơi.

Trụ sở của Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ tạm thời đặt tại

625 wool Creek Dr ,Suite # E
San Jose . CA 95112
Tel . 559 273 1782

E- mail: lienlactimmo@att.net

Xin quí vị liên lạc với VĂN PHÒNG, chúng cháu nguyện làm một trung tâm thông tin kết nối, thâu thập tất cả mọi tin tức liên hệ đến việc tìm mộ, cải táng và tổ chức Lễ Trai Đàn Chẩn Tế cầu siêu độ cho hương linh của các anh hùng tử sĩ VNCH trong những ngày sắp tới. Chúng cháu nguyện đem hết thành tâm thiện chí tiếp sức với bà con tìm thêm những nấm mồ vô danh trên khắp Miền Nam Việt Nam; đồng thời vận động một số phương tiện để hỗ trợ các công việc cải táng và sau đó tổ chức làm lễ cầu siêu, cầu hồn.
Công việc có thành tựu hay không cũng nhờ anh hồn rất linh hiển của những chiến sĩ đã bỏ mình vì Tự Do Dân Chủ và bảo vệ Tổ Quốc phò hộ cho chúng ta, cũng như nhờ sự chung vai góp sức, khích lệ tinh thần của bà con cô chú bác.
Kính mong quý cơ quan Truyền Thông, Báo Chí, diễn đàn Internet tiếp tay phổ biến thông báo này đến với quí đồng hương.
Nguyện xin ơn trên hộ trì cho công cuộc của chúng ta.

Kính Thông báo

Jimmy vu










====================================


THÔNG – BÁO



VIETNAMESE AMERICAN FOUNDATION (Tên củ Tổng HộI H.O) trân trọng thông báo:
Tháng 7 vừa qua, Vietnamese American Foundation (Viết tắt là VAF) (Tổng Hội H.O) đã đến Nghĩa Địa Làng Đá, Xả Cẫm Nhân, tỉnh Yên Bái, hoàn tất việc cải táng hài cốt của Quân Nhân Công Chức Nam Việtnam đã qua đời trong trại tù cải tạo. Cùng tháp tùng với VAF, có 6 gia đình thân nhân, bà Julie Martin, chuyên viên lấy mẩu xương để thử DNA và Luật Sư Cố vấn Wesley Coddou. Nghĩa Địa có 31 mộ, nhưng chỉ còn một mộ duy nhất còn mộ bia. Theo tin tức của Xã Cẫm Nhân, có 06 gia đình xin phép bốc mộ. Một số khác, khoảng 12 ngôi mộ đã bị (có lẽ là thân nhân) đào vào ban đêm. Vì vậy, số hài cốt được cải táng là 13. Cũng trong dịp nầy, chúng tôi đã gíup cho 8 gia đình khác, bốc mộ người thân tại Dõng Hóc - Đồi Cây Khế và Kiên Thành. Tổng cộng có 21 hài cốt. Có 9 hài cốt tử sỉ đã về với gia đình, còn lại 12 hài cốt, còn chờ xét nghiệm DNA để tìm thân nhân
VIETNAMESE AMERICAN FOUNDATION đã được Trung Tâm xét nghiệm DNA, North Texas University Center For Human Identification ũng hộ, đồng ý THỬ TẤT CẢ HÀI CỐT MÀ VIETNAMESE AMERICAN TÌM THẤY, không giới hạn bao nhiêu hài cốt và bất kỳ nơi đâu, để tìm thân nhân người qúa cố. VIỆC THỬ NGHIỆM HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. Trung Tâm đã đề cử bà Julie Martin, chuyên viên lấy mẩu xương để thử nghiệm. Cùng đi theo trợ giúp, có Luật Sư Cố Vấn Wesley Coddou. Cuộc thử nghiệm trên xương người qúa cố đã xong, Trung Tâm Thử Nghiệm chờ lấy mẩu thữ nghiệm từ người thân còn sống.
Như chúng tôi đã trình bày, hầu hết mộ không còn bia, và có 12 mộ đã bị đào vào ban đêm (có lẽ thân nhân), do đó, có thể hài cốt bị lầm lẫn. Đễ tìm chính xác ai là thân nhân người qúa cố, chúng tôi và 6 gia đình thân nhân đi theo bốc mộ, khẫn thiết kêu gọi những gia đình đã bốc mộ vào ban đêm, hoặc bốc mộ có giấy phép, nhưng bốc mộ theo chỉ dẫn của dân địa phương vì mộ không còn bia, xin liên lạc gấp với chúng tôi để cung cấp mẩu xét nghiệm, hầu tìm ra thân nhân người qúa cố. VIỆC XÉT NGHIỆM HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ. Đã có 8 gia đình có tên sau đây liên lạc với chúng tôi::

1.- Cố Đại Úy Pháo Binh LƯƠNG VĂN HOA 2.-Cố Thiếu Tá TRẦN ĐÌNH NĂM, Trường Cây Mai
3.- Cố Đại Úy Bộ Binh TRẦN XUẤT 4.- Cố Thiếu Tá NGUYỄN VĂN BẢYTrung Đoàn Phó SD 18
5.- Cố Trung Tá NGÔ VĂN SANG (hội đại diện) 6.- Cố Thiếu Tá NGUYỄN VIỆT BẠCH, Trường thũ Đức.
7.- Cố Đại Úy Chung Hữu Hạnh. 8.- Nguyễn Thành Hiệu
Ngoài ra, chúng tôi đã đuọc các bạn tù từng bị tập trung tại Làng Đá cho biệt thêm:
8.-Cố Trung Tá ĐINH VĂN TÂN. do cựu Trung Tá Nguyễn Bá Căn cung cấp
9.-Cố Thiếu Tá Đặng Đức Châu, Quận Trưỡng Trảng Bàng, do Ông Nguyễn văn Ngọc, Tham Mưu
Phó Hành Quân Tiếp Vận Tiểu Khu Hậu Nghĩa cung cấp.
10.- Cố Thiếu Tá Quới Quân Vụ Thị Trấn, do cựu Trung Tá Nguyễn Bá Căn cung cấp.

Chúng tôi tìm thấy 3 mộ bia có tên dưới đây:
11.- Huỳnh Kiệt - 12.- Đỗ Hữu Tước 13.- Vũ Xuân Chén

Còn 17 chiến hữu đã qua đời tại Làng Đá mà chúng tôi chưa biết tên, các bạn đồng tù, nếu biết tên xin vui lòng liên lạc với chúng tôi. Nếu thân nhân người quá cố nhận được thông báo nầy xin liên lạc với chúng tôi gấp. Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hànội, Lãnh Sự Quán tại Sài gòn đã tích cực giúp Vietnamese American Foundation. Lãnh Sự Quán tại Saigòn sẽ liên lạc với thân nhân theo danh sách chúng tôi cung cấp, hướng dẫn mọi thũ tục và Cơ Quan IOM sẽ lấy mẩu xét nghiệm gởi về Trung Tâm Xét Nghiệm tại Hoa Kỳ . THÂN NHÂN KHÔNG PHẢI TRẢ BẤT KỲ CHI PHÍ NÀO CHO VIỆC THỬ NGHIỆM DNA.

Tất cả chi phí bốc mộ Làng Đá - Thử nghiệm DNA – Chi phí lấy mẫu xét nghiệm do cơ quan IOM thực hiện – do đồng bào ba Tiểu Bang ở Úc Châu: MELBOURNE – BRISBANE – SYDNEY đóng góp, bảo trợ. Nhóm Thế Hệ Trẽ Úc Châu bày tỏ lòng biết ơn những CHiến Sĩ đã Vị Quốc Vong Thân, bằng cách tự nguyện gây qủy ủng hộ chương trình bốc mộ Làng Đá.
VIETNAMESE AMERICAN FOUNDATION sẽ thông báo khi có kết qủa, đồng thời sẽ giúp thân nhân đưa hài cốt người bất hạnh sum họp với gia đình. Trường hợp, những hài cốt không tìm được thân nhân, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức, đễ có một Nghĩa Trang cho anh em bất hạnh được ấm cúng bên nhau An Giấc Nghìn Thu.

Mọi thư từ liên lạc xin gởi về:

VIETNAMESE AMERICAN FOUNDATION

1117 Herkimer, Houston, Texas 77008
TL: (832)725 – 3231 – fax (713) 522 - 2194

Email: VAF200986@yahoo.com
http://www.tinhdongdoi.org/
http://www.vietremains.org/

Houston ngày 27 tháng 12 năm 2010

T.M. Ban Chấp Hành
Chủ Tịch
Nguyễn Đạc Thành

--------------------------------------------------------------------------

Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến


Huy Phương/Người Việt

QUY NHƠN (NV) - Trong những ngày cuối của cuộc chiến, có một vị đại tá trung đoàn trưởng đã không chịu xuống tàu chạy loạn mà chịu ở lại với lính, và dùng súng tự sát.
Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng TrÐ 42/SÐ 22BB, tự sát vào cuối tháng 4, 1975 và được chôn trong nấm mộ tập thể tại Quy Nhơn.
Xác ông được chôn trong một ngôi mộ tập thể khổng lồ, dưới chân cột cờ bên ngoài Quân Y Viện Quy Nhơn, trong đó có 47 thi hài tử sĩ. Câu chuyện này được một hạ sĩ quan pháo binh kể lại, đồng thời gợi lại ký ức đau buồn nơi một vị bác sĩ hiện đang hành nghề ở New York.
Vào đầu năm 1975, anh Dương Công An nguyên là một hạ sĩ quan Pháo Binh thuộc tiểu đoàn 223 Pháo Binh, nay anh đang sống tại Ðức. Anh An cho biết, vào những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, đơn vị của anh bị tan hàng trên bờ biển Quy Nhơn, anh và một số anh em binh sĩ khác đã lẩn trốn nhiều ngày trong Quân Y Viện Quy Nhơn.
Ở đấy, khi đó chỉ còn có một bác sĩ duy nhất, là Trung Úy Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ hiện là bác sĩ quang tuyến tại một trường đại học ở New York. Khi tin về nấm mộ tập thể tại Quân Y Viện Quy Nhơn được tôi đưa lên net, nhiều người đã điện thoại cho Bác Sĩ Trứ. Những cú điện thoại này nhắc nhở cho ông quá nhiều chuyện kinh hoàng trong quá khứ, khiến ông nhiều đêm mất ngủ.
Sau nhiều lần gọi và nhắn trong máy là chúng tôi sẽ gọi lại, Bác Sĩ Trứ mới bốc máy. Ông kể, vào những ngày sau cùng, một buổi sáng ông được tiếp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 đi trực thăng đến thăm Quân Y Viện. Thấy tình cảnh y chỉ còn một bác sĩ và hằng trăm thương binh trong tình trạng thiếu ăn, thiếu thuốc, cũng như nhiều thương binh chết chưa được chôn cất, Ðại Tá Thông đã khóc trước mặt Bác Sĩ Trứ.
Và chỉ một ngày sau đó, Quân Y Viện tiếp nhận một tử thi nữa, và đó chính là tử thi Ðại Tá Thông. Binh sĩ đưa xác ông tới, và cho biết ông đã tự sát. Nhiều nguồn tin sau này cho biết, Ðại Tá Thông đã từ chối xuống tàu vì binh sĩ dưới quyền ông còn kẹt lại quá nhiều, không di tản được.
Khi đó, tại quân y viện này, có cả hàng trăm bệnh nhân cho một mình Bác Sĩ Trứ. Ðồng thời cũng có rất nhiều binh sĩ tử trận được mang về nằm từ trong nhà xác và rải rác ra khắp hành lang. Các thi hài tại nhà xác QYV đã bốc mùi, và chó đã vào nhà xác ăn, gặm các tử thi này, nên Bác Sĩ Trứ đã nhờ khoảng 20 anh em quân nhân còn sức khỏe phụ với Bác Sĩ Trứ đào một huyệt mộ rất lớn dưới cột cờ, gần khu quân xa của Quân Y Viện.
Ở đây gần biển các nên việc đào đất tương đối dễ dàng. Ðầu tiên là những tử sĩ đã được khâm liệm trong quan tài có phủ quốc kỳ được sắp xuống trước, tiếp theo là những người chết nằm trên băng ca được đặt lên trên những quan tài, cứ thế mà sắp xếp. Tất cả là 47 thi hài tử sĩ, trong số này có Ðại Tá Thông, là cấp chỉ huy trực tiếp của anh An.
Lúc bấy giờ Saigòn chưa thất thủ, ngay cả sinh mạng của anh em binh sĩ bại trận cũng không biết sẽ ra sao nên sự việc chôn cất anh em tử sĩ lúc đó chỉ được thực hiện rất sơ sài hầu như là lén lút và vội vàng. Sau đó vài ngày tất cả bị bắt làm tù binh.
Anh An cho biết câu chuyện đã đeo đuổi theo anh suốt bao nhiêu năm nay, tâm nguyện của anh là ước sao, có ai đó, có khả năng để cải táng được ngôi mộ tập thể này, đó cũng là dịp mà mình an ủi được phần nào linh hồn của những tử sĩ này, nhưng những hy vọng càng ngày càng bị thu nhỏ lại, vì qua tin tức báo chí đất đai ở Việt Nam đã bị lạm dụng xây cất bừa bãi, hay khu đất này thuộc phạm vi của bộ đội Cộng Sản thì không thể làm gì được.
Khi bộ đội vào Quy Nhơn, họ bắt Bác Sĩ Trứ. Nhưng ông không chỉ bị bắt làm tù binh, mà còn bị buộc tội làm việc cho CIA vì mọi người đi hết sao chỉ còn một mình Bác Sĩ Trứ ở lại. Trong Quân Y Viện lúc ấy, có một lính Việt Cộng bị thương được một đơn vị đem gởi điều trị, nhưng lại bị khóa tay vào thành giường, Bác Sĩ Trứ không có chìa khóa mở còng nên nhóm bộ đội càng căm thù Bác Sĩ Trứ. Ông bị tù 4 năm 11 tháng, ra tù ông vượt biển đến Mỹ từ năm 1981, lúc còn độc thân, hiện nay đã có ba con theo học đại học.
Nhiều bạn của Bác Sĩ Trứ cho biết có gặp ông vào năm 1976 tại trại tù Kim Sơn, Bình định. Họ đều cho rằng Bác Sĩ Trứ là một người thấy thuốc rất tận tâm, hết lòng với anh em bạn tù trong trại.
Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ cho biết những ngày cuối cùng tại Quân Y Viện Quy Nhơn ông đã mục kích bao nhiêu cảnh chết chóc thương tâm mà đành bó tay không làm gì được, cũng như những năm ở trong các trại tù “cải tạo” ông đã chứng kiến hay tự tay chôn hàng trăm xác đồng đội. Những điều này ám ảnh ông không bao giờ quên được. Trong những ngày qua, có nhiều điện thoại hỏi đến ông về câu chuyện cũ gần 36 năm về trước khiến cho ông có nhiều đêm bị mất ngủ vì những cơn ác mộng. Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ nói rằng ông đã làm theo lương tâm và với tình đồng đội, đã chôn 47 tử sĩ dưới chân cột cờ của Quân Y Viện. Ông đã nhiều lần về lại Quy Nhơn, qua lại trước khu Quân Y Viện cũ, ngày nay đã là doanh trại của bộ đội Cộng Sản, mà không thể làm gì hơn.
Tin về ngôi mộ tập thể cũng đến tai bà quả phụ cố Ðại Tá Thông, nhũ danh Phùng Ngọc Hiếu. Liên lạc được qua điện thoại hôm Thứ Năm, bà cho biết mấy ngày hôm nay, nhiều bạn bè đã chuyển cho bà về tin tức ngôi mộ tại Quân Y Viện Quy Nhơn, cũng là nơi yên nghỉ của Ðại Tá Thông.
Từ 35 năm nay, bà cũng nghe nhiều tin tức về chồng và bà cũng có nghe tin ông tự sát. Bà cũng đã về Quy Nhơn tìm kiếm nhưng không có tin tức, và không biết xác ông được chôn cất ở đâu. Bà kể, trước khi mất liên lạc, Ðại Tá Thông có liên lạc với vợ và than phiền rằng trung đoàn của ông đang chiến thắng, vì sao lại có lệnh rút bỏ Pleiku.
Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông sinh năm 1937, nguyên quán tại Thạch Hãn, Quảng Trị, tốt nghiệp khóa 16 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Ông được vinh thăng đại tá năm 1972. Hiện nay bà quả phụ cố Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông cư ngụ tại Sacramento và ông bà có 5 người con đã thành đạt.

________________________________________

Tin thêm về những nấm mồ thất lạc

* Tìm thân nhân cựu Ðại Úy Phi Công Vũ Chí Công

Ông Huỳnh Tuấn Hải (Việt Nam) mong muốn tìm thân nhân của một cựu phi công VNCH tử nạn vì máy bay bị bắn rớt vào năm 1975.
Ngày 15 tháng 4, 1975, ông Hải và một người bạn là quân nhân VNCH chạy từ Gia Lai về Phan Rang. Sau khi vượt sông, hai người men theo con mương thì gặp một chiếc phản lực bị trúng đạn nằm ngang giữa lòng mương. Chiếc máy bay bị gãy 2 cánh, bên trong buồng lái thì có một phi công đã chết. (Ông Hải nói chiếc phi cơ đó là máy bay F-5, nhưng dường như SÐ2KQ không có phi đội F-5.)
Sau khi kéo xác người phi công ra khỏi buồng lái, và trước khi chôn cất, ông Hải đã lục trong túi áo của người phi công và thấy một cái ví đã bị cháy lam nham, bên trong ví là giấy tờ tùy thân mang tên Vũ Chí Công, sinh năm 1949. Quê quán tại Việt Bắc. Nơi ở Sài Gòn-Gia Ðịnh. Cấp bậc đại úy, thuộc Sư Ðoàn II Không Quân VNCH.

* Tìm thân nhân cựu Thiếu Tá Ðạt, SQ Tâm Lý Chiến, tiểu khu Bình Ðịnh

Một người dân ở Việt Nam tình cờ biết được thông tin về nơi chôn cất thi thể của một người lính VNCH bị chết trên đường trở về đơn vị trong đợt thất thủ tháng 4, 1975. Ðược biết đó là một sĩ quan thiếu tá tên Ðạt, nhiệm sở là tiểu khu Bình Ðịnh (Tâm Lý Chiến) đi công tác tại An Túc trở về, bị thương và khi biết tất cả nẻo đường đều bị chia cắt không thể trở về đơn vị được nữa, ông đã dùng súng tự sát. Thi hài anh được người dân địa phương chôn lấp vội vàng bên lề đường, nằm cô độc nơi đây đã 35 năm qua.

Xin liên lạc với lienlactimmo@att.net hay số điện thoại: (559) 273-1782. Ðây là một nhóm thanh niên trẻ, chủ trương bởi anh Vũ Nhân (Jimmy Vũ), cũng là con một cựu quân nhân VNCH, hiện là người điều hành Bảo Tàng Viện Fresno Discovery Museum, cùng các bạn trẻ tại Hoa Kỳ cũng như trên thế giới, phát động chiến dịch “Uống Nước Nhớ Nguồn”, đóng góp để phụ giúp dân làng An Dương làm lễ Trai Ðàn Chẩn Tế, tiếp tục truy tìm những nấm mồ thất lạc, đồng thời thành lập một văn phòng liên lạc tìm mộ tại:

625 Wool Creek Dr., Suite # E, San José, CA 95112. Phone: (559) 273-1782. E- mail: lienlactimmo@att.net.




------------------------------------------------------------------------------------------------



KHAI QUẬT MỘT NẤM MỒ TẬP THỂ CỦA QUÂN NHÂN VNCH TỬ TRẬN VÀO CUỐI THÁNG 3-1975





TRÊN BÃI BIỂN THUẬN AN (TẠI THÔN AN DƯƠNG) HUẾ


132 bộ hài cốt được cải táng, nhưng chỉ tìm được 7 thẻ bài và 1 căn cước

Vào cuối tháng 3-1975, trong khi quân đội VNCH rút khỏi Vùng I Chiến Thuật, chúng ta đã để lại trên chiến trường, nhất là ở các bãi biển Thuận an, thuộc tỉnh Thừa Thiên hàng nghìn chiến sĩ, tuy thiện chiến, nhưng cuối cùng đành phải buông súng và chết trong tức tưởi.
Tại thôn An Dương, thuộc Quận Phú Vang Huế, một địa điểm chỉ cách với bờ biển Thuận An 2km về phía Nam , cuối tháng 3 -1975, dân chúng sau cuộc chiến đã chôn cất rất nhiều chiến sĩ của chúng ta ngay trên bãi biển. Với sự mong mỏi của đồng bào làng An Dương, nhất là những người đã tự tay chôn cất những người tử nạn, từ bao nhiêu năm nay, là làm sao để cải táng và di dời những hài cốt xiêu lạc này vào một khu đất khô ráo xa bờ biển, vì sau hơn 35 năm, nước biển đã lấn chiếm đất liền và nhất là trận bão lụt năm 1999 đã cuốn một số hài cốt ra khơi. Cho mãi đến tháng 7 năm nay (2010), với sự trợ giúp tài chánh của đồng bào hải ngoại, Hoa kỳ và Canada, và được sự đồng ý của chính quyền địa phương, đồng bào thôn An Dương đã có phương tiện di dời hài cốt của các tử sĩ từ ngoài bờ biển vào đất liền với mộ phần khang trang, có bia mộ và nhà lăng.
Người đã có tấm lòng nhân ái, vận động từ bà con, thân hữu tại hải ngoại để có đủ số tiền $8,000.00 để cải táng và xây lăng mộ là Chị Tố Thuận là người sinh sống từ nhỏ tại làng An Dương, nơi có phần mộ tử sĩ và đã chứng kiến qua các biến cố tang tóc vào cuối tháng 3-1075 tại Thuận An. Chị Thuận hiện nay cư ngụ tại Sacramento, là một quả phụ VNCH vì chồng chị là Anh Lê Văn Hội, một hạ sĩ quan Quân cảnh thuộc TTHL Đống Đa, Huế đã mất tích vào những ngày cuối cuộc chiến (tháng 3-1975 tại bãi biển Đà Nẵng).
Trong dịp này đồng bào thôn An Dương chỉ sưu tầm được 132 bộ hài cốt, nhưng tiếc thay, chúng ta chỉ tìm thấy 8 thẻ bài và một căn cước của những người đã hy sinh. Số người có tên trong thẻ bài, căn cứ theo số quân, hầu hết đều còn rất trẻ, từ 20 đến 22 tuổi. Chúng tôi xin gởi đến đồng bào hải ngoại danh sách 8 tử sĩ đã bỏ mình tại bãi biển Thuận An thuộc thôn An Dương, Huế vào những ngày cuối tháng 3-1975 với hy vọng rằng có gia đình tìm được con, em, chồng hay bạn bè qua những tấm thẻ bài này.
Hiện nay việc cải táng và xây lăng mộ đã hoàn tất tốt đẹp, đồng bào thôn An Dương có ước nguyện là tổ chức một lễ trai đàn chẩn tế cho chư vị âm linh, cô hồn trong cuộc chiến vừa qua, nhất là những tử sĩ đã bỏ mình tại bãi biển An Dương.
Hiện nay vì sự an toàn của quý ân nhân hiện nay đang còn ở tại quê nhà, mọi sự liên lạc, xin đồng bào gọi cho Chị Tố Thuận ở số (916) 273-2989 để được hướng dẫn bốc mộ nếu có thân nhân trong số có thẻ bài, cũng như để rõ thêm chi tiết, hay gọi cho Huy Phương (949) 241-0488 là người đang giữ các thẻ bài của quý vị tử sĩ.


DANH SÁCH CÁC QUÂN NHÂN VNCH TỬ TRẬN TẠI BÃI BIỂN THUẬN AN- HUẾ VÀO THÁNG 3-1975 (tìm thấy thẻ bài).

1. NGUYỄN VĂN VÂN Sinh năm 1954 SQ:74/144-016 Loại máu O
2. TIẾC DỤC Sinh năm 1955. SQ:75/145-256 Loại máu:A
3. TRẦN NGỌC ANH Sinh năm 1954 SQ: 74/108- 532 Loại máu: O
4. LÊ VĂN PHƯƠNG Sinh năm 1953 SQ: 73/156-263 Loại máu : O
5. TRẦN VĂN ĐƯỢC Sinh năm 1954 SQ: 74/164- 292 Loại máu; A+B
6. ĐINH VĂN KIÊM Sinh năm 1943 SQ: 63/212-486 Loại máu: O
7. NGÔ ĐẮC HÙNG Sinh năm 1955 SQ: 75/ 206-046 Loại máu O
8. NGUYỄN VĂN DỤC Sinh năm 1937 SQ: 57/000-706 Loại máu: O
9. HỒ THÀNH BẢY Sinh ngày 20/1/1931 tại Phong Dinh
Cha: Hồ Văn Miên- Mẹ: Nguyễn Thị Chon
Địa chỉ: Xã Tân Bình, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định.



Nếu các bạn cần biết thêm chi tiết của cuộc cải táng (có chiếu đoạn phim bốc mộ), xin theo dõi buổi buổi nói chuyện của chúng tôi với chị Tố Thuận trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của đài truyền hình SBTN, vào ngày thứ bảy 27/11 vào lúc 10:00 PM, thứ năm 2/12 vào lúc 1:00PM và Thứ Bảy 4/12 vào lúc 10:00PM (giờ Cali). Huy Phuong/SBTN


-------------------------------------------------------------------------------------------------------------


                             Lột Trần Bộ Mặt và Chế Độ Cộng Sản



Trân trọng kính chuyển để QUÝ VỊ tham khảo và vui lòng phổ biến rộng rãi trong và ngoài nước. Cảm phục nhà văn DƯƠNG THU HƯƠNG, người từng sống trong lòng chế độ CSVN, đã can đảm nói lên sự thật độc ác, tàn nhẫn của bạo quyền CSVN. Mong rằng quân đội, công an và đồng bào hãy sớm thức tỉnh, dũng cảm dẹp bỏ chế độ thối nát, dã man, vô nhân đạo và đừng nghe theo lời tuyên truyền xảo trá của CSVN tôi tớ Trung cộng, bán nước, hại dân.


Gs NGUYỄN THỊ HIỀN


Kính chuyển đọc và phổ biến tối đa, trong và ngoài nước, một bài của Dương Thu Hương không thể bỏ qua.
Ai đã đọc bài này mà còn theo cộng sản là người không có đầu. Ai đã đọc bài này mà còn làm theo lời, theo lệnh cộng sản là người không có trái tim (Phỏng lời Cựu Tổng Thống Nga Vladimir Putin)


Kính


Down With Communism!
Không làm, không nói, không viết những gì có lợi cho cộng sản
Lột Trần Chế Độ CS
Dương Thu Hương


Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.
Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.
Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .
Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.
Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.
Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.
Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ”


Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.
Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?


Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi.
Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.


Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.
Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu.
Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nốitiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu đểcắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọnày đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bịtiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.


1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.


2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.
Nếu như năm 1945, cha anh họlà các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”


DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.


Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phầnsống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.
Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻdựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!
Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họlà trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộbây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Bác chúng em
Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.
Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từphương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụđã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợchẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏmặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!
Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trởthành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệông chủ của nó?
Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào nhưsôi”.
Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?
Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?
Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trảlời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lênủng hộ gia đình nạn nhân, con sốlên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộchưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu. .Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thếcăm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa nhưông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họcũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờtương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ởNga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cảthì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗicon người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản đểchủ nghĩa cuồng tín không thểđặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉđể làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộvà các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổdưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.


Dân Việt!
Ai là dân Việt?
Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờbiển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúngủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.
Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉlàm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổhọng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộquốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi đểchống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!
Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sựdưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.
Bây giờ, chúng ta không còn cơhội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
Để giữ được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉluỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi.
Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại sốphận bi thảm của An Dương Vương.
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ.
Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?


DƯƠNG THU HƯƠNG


Tổng Thống Nga Vladimir Putin


Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.
Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.

Tổng Thống Nga Boris Yeltsin

Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.


Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:


20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,
40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.


Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:


Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.